Thiền Na
Để viên mãn giác biết thành thấy biết, pháp Thiền Na ra đời. Thiền Na là sự dung hợp của hai pháp Xa Ma Tha và Tam Ma Bát Đề. Hai pháp này dung hợp sẽ đưa đến bình đẳng tâm.

Pháp Xa Ma Tha và Tam Ma Bát Đề là hai pháp riêng lẻ. Mỗi pháp là cảnh giới nhân nơi giác ngộ tự chứng. Nghĩa là vẫn còn y vào cái gì đó để giác chưa phải tự giác. Giống như thấy mặt trăng thứ hai, nếu không hóa giải giác này thì chưa thể nhập Viên Giác hay Phật tánh chưa viên, trong kinh Đại Bát Niết Bàn Phật nói rõ:
“Nầy Thiện nam tử! Kinh điển Đại-Niết- Bàn vi diệu nầy, lúc đức Như Lai chưa nói cũng lại như vậy. Vô lượng Bồ Tát dầu đầy đủ thật hành các Ba La Mật, nhẫn đến bậc thập trụ vẫn còn chưa thấy được Phật tánh. Lúc Như Lai đã nói, mới thấy được chút ít. Lúc Bồ Tát nầy đã được thấy, đều nói rằng: “Thế Tôn! Lạ lùng thay, chúng tôi lưu chuyển thọ vô lượng sanh tử, thường bị vô ngã làm mê lầm.
Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát nầy lên bực thập trụ còn chưa thấy được Phật tánh rõ ràng, huống là hàng Thanh Văn, Duyên Giác mà có thể thấy đặng.
Nầy Thiện nam tử! Ví như có người ngước mặt nhìn đàn chim nhạn trên hư không, nhìn kỹ phưởng phất thấy dạng bầy nhạn. Bực thập trụ Bồ Tát đối nơi Phật tánh, thấy biết được chút ít cũng lại như vậy, huống là hàng Thanh Văn, Duyên Giác mà thấy biết được!
Nầy Thiện nam tử! Ví như người say, đi trên đường xa, ngó thấy mập mờ. Bực thập trụ Bồ Tát đối với Phật tánh thấy biết được ít phần cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Như người khát nước, đi trong đồng trống, khắp nơi tìm nước, thấy có lùm cây, trong lùm có chim bạch hạc, người đó bị cơn khát bức ngặt, mê muội chẳng phân biệt được là cây hay là nước. Đến lúc nhìn kỹ mới biết là chim bạch hạc cùng với lùm cây. Bực thập trụ Bồ Tát, đối với Phật tánh, thấy biết phần ít cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Ví như có người ở trong biển lớn, nhẫn đến trăm ngàn do tuần, trông thấy chiếc thuyền lớn ở ngoài khơi xa, liền nghĩ rằng: Đó là chiếc thuyền hay là khoảng không. Nhìn lâu, trong tâm quyết định biết là thuyền lớn. Bực thập trụ Bồ Tát, thấy Phật tánh cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Ví như vị Vương tử, thân rất yếu đuối, dạo chơi suốt đêm, đến sáng ngày sau, mắt mờ thấy không được rõ. Bực thập trụ Bồ Tát dầu ở nơi tự thân thấy được Phật tánh nhưng chưa được rõ ràng cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Ví như quan lại, vì công sự suốt đêm trở về nhà chớp nhoáng thấy bầy trâu, liền nghĩ rằng: Đó là trâu ư, hay là dãy nhà, nhìn lâu, dầu nhận là trâu mà còn chưa định chắc. Bực thập trụ Bồ Tát, dầu ở nơi tự thân thấy Phật tánh, chưa có thể định chắc cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Như Tỳ Kheo trì giới, nhìn trong bát nước không có trùng, mà thấy tướng trùng, liền nghĩ rằng: Trong nước đây là trùng hay bụi đất, nhìn lâu, dầu biết là bụi nhưng chẳng rõ ràng. Bực thập trụ Bồ Tát, ở trong thân mình thấy Phật tánh chẳng được rõ ràng lắm cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Ví như có người, xa thấy đứa trẻ đứng trong bóng tối, liền nghĩ rằng: Đó là con vật, là chim, hay là người? Nhìn lâu, dầu nhận thấy là đứa trẻ, nhưng vẫn chẳng rõ ràng. Bực thập trụ Bồ Tát ở nơi thân mình thấy Phật tánh chẳng rõ ràng lắm cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Ví như có người ở trong đêm tối, thấy bức họa tượng Bồ Tát liền nghĩ rằng: Đây là tượng Bồ Tát hay là tượng Thiên thần, nhìn lâu dầu nhận là tượng Bồ Tát, nhưng chẳng rõ ràng. Bực thập trụ Bồ Tát ở nơi thân mình thấy Phật tánh chẳng rõ ràng lắm cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Phật tánh ấy rất sâu như vậy, khó biết khó thấy, chỉ Phật biết rõ, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác đến được. Người trí phải quan sát như vậy để rõ biết Phật tánh.”[[1]]
Đoạn kinh “ở nơi thân mình thấy Phật tánh,” có nghĩa từ các căn thân mà thấy Phật tánh chứ không do nơi khác. Cũng kinh này Phật nói: “Người thấu suốt có thể nương nơi nhục nhãn thấy Phật tánh.”
Phật và các Đại Bồ Tát chính là Phật tánh. Vì thế Phật không nói Phật và Bồ Tát có Phật tánh, mà chỉ nói: “Chúng sanh có Phật tánh.”
Đoạn kinh này mô tả cặn kẽ vấn đề: “Ví như có người ở trong biển lớn, nhẫn đến trăm ngàn do tuần, trông thấy chiếc thuyền lớn ở ngoài khơi xa, liền nghĩ rằng: Đó là chiếc thuyền hay là khoảng không. Nhìn lâu, trong tâm quyết định biết là thuyền lớn. Bực thập trụ Bồ Tát, thấy Phật tánh cũng như vậy.”
Để viên mãn giác biết thành thấy biết, pháp Thiền Na ra đời. Thiền Na là sự dung hợp của hai pháp Xa Ma Tha và Tam Ma Bát Đề. Hai pháp này dung hợp sẽ đưa đến bình đẳng tâm.
Sự thân chứng riêng lẻ không còn nữa, một hình thức mới xuất hiện đó là các tam muội môn. Đây là biến thể của Tứ Thiền ở cấp độ siêu việt, ra khỏi giới hạn người chứng và pháp chứng. Sự dung hợp này biến Xa Ma Tha thành tầm (giác), Tam Ma Bát Đề thành tứ (quán); khi phát dụng hai chi này gọi là “tam muội có giác có quán,” nếu Xa Ma Tha dung hợp vào Tam Ma Bát Đề sẽ có tên “tam muội không giác có quán,” hai thứ này khi dung hợp triệt để sẽ cho ra một loại tam muội tương đương thiền thứ hai, thứ ba, hay thứ tư có tên “tam muội không giác không quán.”
Tam muội không giác không quán là sự kế thừa thành tựu của “tam muội có giác có quán,” tức Xa Ma Tha và Tam Ma Bát Đề. Trong thiền Thanh Văn gọi là “bất khổ bất lạc thọ.”
Đây là tinh hoa hội tụ của tất cả công đức để sản sinh trí tuệ. Vì nó là trí tuệ nên có thể xuất nhập tự tại các tam muội, phát dụng một tam muội nào cảm thấy cần thiết cho tu tập hoặc làm công hạnh đều không trở ngại. Không cần phải theo lộ trình nhất định như thiền nhị thừa, đây là loại thiền siêu việt nên có tên Siêu Việt tam muội.
Trong tam muội Bồ Tát có thể chuyển từ thấp lên cao hay trên cao xuống thấp. Giống như con sư tử đang phóng thẳng vồ mồi có thể quay ngược trở lại, nên thiền này cũng có tên Sư Tử Phấn Tấn tam muội. Hình thức thì giống Tứ Thiền nhị thừa nhưng tính chất bên trong khác hẳn do tri kiến sai biệt.
Thiền này còn có tên Thiền Na Ba La Mật. Nó là kế thừa viên mãn của năm Ba La Mật kia và là từ một Trí Tuệ Ba La Mật làm thành.
Khi Bồ Tát dùng thiền này để nghỉ ngơi thì nó chính là “tam muội lạc chánh thọ ý sanh thân.”
Nếu phát khởi pháp duyên từ, chúng sanh duyên từ, vô duyên từ để hóa độ chúng sanh thì nó là “chủng loại câu sanh vô hành tác ý sanh thân.”
Nếu phát khởi trí tuệ quán sát các môn phương tiện hay môn giải thoát thì nó chính là “giác pháp tự tánh tánh ý sanh thân.”
Bốn thiền trở thành ba ý sanh thân của Bồ Tát tùy chỗ dụng. Thuật ngữ trong kinh khi Bồ Tát tự tu tập gọi là “tự thọ dụng pháp,” khi hóa độ sẽ là “tha thọ dụng pháp.”
Các tướng trạng này gọi chung là Thiền Na hay Thiền Na Ba La Mật. Nó là nhân cũng vừa là quả của Trí Tuệ Ba La Mật. Hỷ lạc giác quán của Thiền Na tính chất là thường, đây là nhân sanh bốn đức Thường, Ngã, Lạc, Tịnh của Đại Niết Bàn. Nếu ba thừa trong Niết Bàn chỉ có hai tính chất đó là lạc và tịnh, thì nhất thừa trong Thiền Na có thêm hai món là ngã và thường.
Tính chất bốn đức bây giờ mới đủ. Sự khác biệt giữa thiền và tam muội chính là tri kiến.
Nếu dùng làm phương tiện tu hành để khế chứng quả vị nào đó gọi là thiền vì nó mang tính chất công cụ hay phương tiện.
Nếu là giác ngộ siêu việt do trí tuệ mà vào gọi là tam muội.
Đặc tính của tam muội là vô tướng nên tự xả không có năng chứng cùng sở chứng. Đến đây mới gọi là viên mãn quả vị vô tu vô chứng.
“Này Thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát ngộ được Viên Giác thanh tịnh rồi, thì y như tâm Viên Giác này mà tu: Không chấp thủ pháp "Quán như huyễn," và pháp "Chỉ tịch tịnh.” Bồ Tát rõ biết thân tâm này đều là vật ngăn ngại, còn tánh Viên Giác thì không bị các vật làm chướng ngại, lại còn siêu việt ra ngoài những cảnh chướng ngại (sanh tử) và không chướng ngại (Niết Bàn); nó vẫn thọ dụng thế giới và thân tâm ở trong cõi trần này, mà không bị cảnh trần ràng buộc, mặc dù phiền não hay Niết Bàn cũng không làm lưu ngại nó được. Thí như tiếng "boong" của chuông, tuy ở nơi chuông mà vẫn thoát ra ngoài chuông.”[[2]]
Bồ Tát giác ngộ chơn Viên Giác rốt ráo thì thân tâm Bồ Tát là Thiền Na. Trong Thiền Na dùng giác quán thấy thiệt tướng vạn pháp hết mê lầm, siêu việt trên mọi giác tưởng. Không bỏ vọng cầu chơn, không rời sanh tử để chọn Niết Bàn, ngay nơi phiền não đủ nghĩa Bồ Đề, Bồ Tát rõ biết tất cả không hai.
Dùng giáo hóa chúng sanh làm tư lương Vô Thượng Bồ Đề. Chưa giác ngộ chơn Viên Giác phải dùng một trong hai pháp Tam Ma Bát Đề hay Xa Ma Tha để tu tập. Muốn khế chứng chơn Viên Giác, dùng một trong hai pháp đã tu lấy pháp này làm chính pháp kia làm phụ hoặc ngược lại.
Khi nào hai pháp dung hợp bình đẳng thì Xa Ma Tha như tiếng chuông, Tam Ma Bát Đề như tiếng chuông vọng về phía chúng sanh.
Tiếng chuông Thiền Na sẽ tùy duyên khiến chúng sanh nghe được pháp âm dứt khổ.
Bây giờ bốn tướng hóa thân thành bốn món tâm vô lượng. Vì thế khi đối trước 500 con voi say, Thế Tôn bình thản nhập Từ Bi tam muội đưa năm ngón tay lên, bầy voi say tưởng là năm con sư tử chúng mọp đầu kính lễ.
“Bồ Tát lúc bấy giờ, ở nơi nội tâm được vắng lặng. Rất nhẹ nhàng thư thái, nào ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, bốn tướng đều chẳng còn và được tùy thuận cảnh giới Viên Giác tịch tịnh mầu nhiệm. Bồ Tát tu phương tiện này, gọi là tu Thiền Na.”[[3]]
Thiền Na có công dụng quân bình hai pháp chỉ và quán. Hay nói khác đây là pháp có công năng tịch diệt hai pháp chỉ và quán. Do hai pháp tịch diệt, tâm Bồ Tát không còn ngăn ngại nên tạm gọi là Thiền Na hay còn gọi tùy thuận Viên Giác. Tùy thuận là vì Bồ Tát không lấy Viên Giác, không bỏ Viên Giác, chỉ y như nguyện làm cầu đò đưa chúng sanh ra khỏi biển khổ.
Tóm lại ba pháp trên hỗ trợ cho Bồ Tát thể nhập vào chơn Viên Giác. Vì nếu chỉ tu đơn thuần một pháp, thì không thể nhập chơn Viên Giác. Bởi lẽ, như Phật dạy: Viên Giác không do bốn bịnh mà thành.
Có pháp để tu, có Viên Giác để nhập là bịnh.
− Bịnh ‘nhậm’ nghĩa là mặc kệ của phàm phu.
− Bịnh ‘tác’ nghĩa là pháp làm ra của nhị thừa.
− Bịnh ‘chỉ’ tức đình chỉ mọi duyên của pháp Xa Ma Tha.
− Bịnh ‘diệt’ là làm cho các pháp dứt diệt của pháp Tam Ma Bát Đề.
- Thiền Na chính là liệu pháp làm sạch bốn bịnh để hiện chơn trí tuệ. Chơn trí tuệ hiện gọi là Viên Giác tức giác ngộ viên mãn. Do đó khi chưa thấy chơn Viên Giác, Bồ Tát phải tu đủ ba pháp.
Vì sao Bồ Tát đã ngộ Viên Giác còn phải tu ba pháp? Giống như mặt trăng thứ hai trong ao nước, mặt trăng này với trăng trên trời không khác, nhưng chưa thể bảo là một. Người trí nhân mặt trăng dưới ao, biết được trên trời có trăng, tu tập ba pháp giống như người thấy mặt trăng thứ hai, sau đó nhìn ngược lên trời để thấy trăng thật. Khi thấy mặt trăng trên trời thì mới biết mặt trăng dưới ao không thiệt. Bây giờ Bồ Tát quyết chắc chỉ có một mặt trăng, không có nhiều trăng, không có trăng khác, mọi hoài nghi trăng và bóng không còn.
Cũng vậy lúc nghe đến Viên Giác với những tính chất như vậy, Bồ Tát nương các tính chất này để làm sạch những gì còn thừa sót về với chơn Viên Giác. Khi chơn thấy rồi thì mới biết chúng sanh, Bồ Tát, Phật đồng một giác tánh thanh tịnh không có nơi chốn để về. Trong kinh Viên Giác Phật kết luận ý nghĩa của Thiền Na như sau:
“Này Thiện nam tử! Ba pháp môn này, đều là phương tiện để nhập Viên Giác tánh. Mười phương các đức Phật đều nhơn phương tiện này mà được thành Phật. Mười phương các vị Bồ Tát, tu các phương tiện hoặc đồng hay khác, nhưng cũng đều y ba pháp môn này mà được chứng ngộ chơn Viên Giác.”[[4]]
[[1]] Trích kinh Đại Bát Niết Bàn –HT. Thích Trí Tịnh dịch.
[[2]] Trích kinh Viên Giác –HT. Thích Thiện Hoa dịch.
[[3]] Trích kinh Viên Giác –HT. Thích Thiện Hoa dịch.
[[4]] Trích kinh Viên Giác –HT. Thích Thiện Hoa dịch.
(còn nữa)
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






