Ba Mươi Bảy Phẩm – Tứ Như Ý Túc – Nhất Tâm Như Ý Túc
Nhất tâm ngoài việc dễ thành tựu sự việc như ở đời thường hiểu còn hàm ý đây là phương thức tạm dừng hiện nghiệp để tâm ý chuyển sang một cảnh giới mới. Do đó nhất tâm như ý túc như một quyết tâm cao độ hướng đến mục tiêu, nó còn là tiền đề để người tu hành hoàn toàn tự do chọn lựa con đường của mình trong thánh quả.

Nhất tâm như ý túc, chữ nhất tâm trong một số bản dịch từ Hán tạng sang Việt ngữ được dịch là “một lòng một dạ,” cụm từ này sáng nghĩa và tránh được nhiều hiểu lầm không cần thiết trong giới tu hành.
- Một lòng một dạ hướng đến mục tiêu nào đó và khi nào đạt được mục đích mới thôi thì gọi là nhất tâm.
Có nghĩa trong khoảng thời gian này những tâm nào không liên hệ đến mục đích tạm thời gác lại; nếu có khởi lên phải tìm cách trừ diệt để hỗ trợ mục đích chóng thành tựu; những tâm nào khởi lên có mối liên hệ đến mục đích thì phải trưởng dưỡng; thực hiện như vậy mới được coi là nhất tâm.
Ví dụ như người đi từ A đến B, một lòng một dạ đến B, trên đường gặp chướng ngại phải dừng lại, vị này sinh tâm phiền muộn vì chưa đạt được mục đích đến B; tâm phiền muộn này có mối liên hệ đến mục đích nên tâm này cũng nằm trong khái niệm nhất tâm, gọi là một lòng một dạ.
- Vì sao trong Phật giáo đòi hỏi người tu hành cần phải nhất tâm hay cao hơn nữa là nhất tâm như ý?
Phàm ở đời một lòng một dạ làm việc gì thì việc đó dễ thành công, tu hành cũng không ngoài lệ này, nhưng nếu chỉ dừng ở ý nghĩa vừa nêu thì nhất tâm trong Phật pháp chưa đủ nghĩa.
Phật giáo quan niệm sở dĩ chúng sanh trôi lăn trong ba cõi và sinh các món phiền não là vì chúng sanh đó đang sống trong nghiệp hay là đang bị nghiệp chi phối. Nếu muốn giải thoát hoặc dứt phiền não thì bằng cách nào đó phải thoát ra khỏi nghiệp quả mình đang cưu mang.
Nhưng nghiệp là cái gì thì không thể thấy biết rõ ràng được. Tuy vậy Phật giáo cũng có cách để cụ thể hóa hình tướng của nghiệp cho chúng sanh nhận biết. Sau khi nhận biết sẽ dễ dàng thoát ra khỏi cột trói của nó, hoặc ít ra không bị nghiệp lôi kéo sinh phiền não.
- Thuật ngữ tam nghiệp là ‘thân, khẩu, ý’, nhằm chỉ chân tướng của nghiệp. Bản chất của nghiệp là vọng động và tạo tác, khi nào thân khẩu ý vọng động tạo tác biết rằng nghiệp đang hiện hữu. Như vậy muốn dừng nghiệp phải làm cho ba nghiệp không hiện khởi, Phật giáo gọi là ‘thanh tịnh ba nghiệp’.
Bản chất của nghiệp là vọng động tạo tác nên một lúc không thể dừng lại được. Điều này người tu hành thường hình tượng hóa bằng cụm từ “tâm viên ý mã,” có nghĩa tâm như con khỉ, ý như con ngựa để chỉ tính chất lăng xăng của chúng. Tâm ý lăng xăng thì thân khẩu cũng lăng xăng, vì tâm ý làm chủ điều khiển thân khẩu, để thuần hóa hai loài vật này, người ta làm giảm dần tính nết lăng xăng của chúng.
Cũng vậy, ở đây để giảm dần sự lăng xăng của tâm ý, Phật giáo dạy người tu hành hướng tâm ý vào điều tốt đẹp, một lòng một dạ hướng vào điều tốt đẹp thời gian sẽ làm cho tâm ý quên đi tánh nết xưa của mình. Bây giờ tâm ý không còn thói quen cũ, thói quen cũ đã mất thì tâm ý sẽ không chỉ đạo thân khẩu thi vi tạo tác. Thân khẩu ý không thi vi tạo tác hiện nghiệp sẽ tạm dừng, nói tạm dừng vì phương tiện này chưa thể dừng hẳn tâm ý.
Khi hiện nghiệp tạm dừng, người tu hành mới có thể chuyển tâm ý vào cảnh giới cao hơn. Nếu ‘tu thiền’ tâm ý sẽ tiến vào các ‘thiền thú’ để đạt cảnh giới mới, ‘cầu vãng sanh’ tâm ý sẽ vãng sanh vào ‘cõi nước’ mình đã nguyện.
- Chính nguyên lý này, trong kinh Tịnh Độ nói rằng trên Cực Lạc tiếng chim hót chỉ kêu lên ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, bát thánh đạo phần mà không thấy kinh nói chim ở xứ đó kêu tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc.
Vì bốn món này thuộc về cõi dục, dành cho người cõi dục tu hành để dừng hiện nghiệp, và hiện nghiệp có dừng mới mong chuyển thân tâm vào nghiệp mới thắng diệu hơn.
Ví như một người muốn đi xa nhưng đang bị tù tội, chính tù tội không cho người đó hoàn thành tâm nguyện, điều kiện tiên quyết để hoàn thành ước nguyện là bằng cách này hay bằng cách khác phải ra khỏi nơi giam nhốt. Muốn đi xa dụ như người muốn vãng sanh vào Tịnh Độ hay ra khỏi ba cõi; cảnh tù tội giống như hiện nghiệp đang giam nhốt; thoát ra khỏi nơi giam nhốt giống như nhất tâm dừng hiện nghiệp.
Nhất tâm ngoài việc dễ thành tựu sự việc như ở đời thường hiểu còn hàm ý đây là phương thức tạm dừng hiện nghiệp để tâm ý chuyển sang một cảnh giới mới. Do đó nhất tâm như ý túc như một quyết tâm cao độ hướng đến mục tiêu, nó còn là tiền đề để người tu hành hoàn toàn tự do chọn lựa con đường của mình trong thánh quả.
Đây cũng là bước chuyển mình để thành tựu niệm hay quán như ý túc. Khâu cuối cùng của tứ như ý túc để viên mãn tư lương vị, đầy đủ hành trang vào địa vị kiến đạo, chuẩn bị mở cửa Niết Bàn.
(còn nữa)
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






