Kinh Giả Kinh Thật

Các bạn !!!
Trong hai lần sinh hoạt vừa rồi, mình đã trao đổi với mọi người một số vấn đề liên quan đến quá trình phát triển của Phật đạo trong suốt hơn 2500 qua, cũng như câu chuyện mà phần lớn người tu hành quan tâm hiện nay, thậm chí dẫn đến những tranh luận gay gắt đó là “kinh thật kinh giả” !!!
Như mọi người đều biết !!! Giáo pháp mà chúng ta đang học tập hôm nay, là thứ chân lí đã được Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni phát hiện và tự chứng ngộ cách đây trên 2500 năm !!! Sau khi tự chứng ngộ, giáo pháp siêu việt ấy đã được Đức Bổn Sư tuyên thuyết, và chính tính chất ưu việt đó, giáo pháp của Đức Phật chẳng những không bị đào thải theo quy luật thời gian, mà lại phát triển rực rỡ theo tháng năm !!! Thậm chí, nó đã trở thành thức ăn tinh thần, một loại văn hoá, một nền giáo dục, một tôn giáo có bản sắc riêng..vv.. đối với một bộ phận rất lớn nhân loại trên thế giới này !!!
Nhưng, cũng chính sự phát triển nêu trên, điều tất yếu đã xảy ra đối với giáo pháp theo quy luật tự nhiên, như quy luật phát triển của một cái cây, ban đầu chỉ một hạt giống được gieo trồng, sau thời gian, cây ấy phát triển, cành nhánh sum sê…và ngày cành nhánh càng xa gốc rể của nó…Và, sự phát triển rồi suy tàn này cũng đã được Đức Thế Tôn đưa ra dự ngôn, đó là ba thời kì của giáo pháp gồm chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp !!!
Ngày Thế Tôn tự chứng ngộ giáo pháp, ngày ấy ta tạm coi như không thừa !!! Nhưng, để lan truyền giáo pháp một cách rộng lớn, giáo pháp rất cần những con người am tường chân lí để làm cây cầu nối giữa đạo và đời, Phật thừa lại xuất hiện… Bây giờ Thế Tôn phải đảm nhận hai vai trò vừa là một Bồ tát giáo hoá chúng sanh, vừa là một Đẳng chánh giác như một hình mẫu để chúng sanh chiêm ngưỡng, kinh Hoa Nghiêm đã khái quát hình ảnh này bằng lời dạy bất hủ: “Tinh tấn là Bồ tát, viên mãn là Phật” !!!
Nhưng rồi, chỉ với giáo pháp của một Phật thừa, không thể truyền tải hết tinh tuý của giáo pháp ấy đến với những căn cơ sai biệt… Từ đây, ba thừa là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát thừa xuất hiện !!! Sự xuất hiện của ba thừa cho thấy tính linh hoạt của giáo pháp và sức thiện xảo của Thế Tôn, câu nói: “Như lai dùng một thứ ngôn thuyết, nhưng mỗi thừa lại hiểu theo nghiệp riêng của mình” đã minh chứng cho sự khác biệt về cách hiểu giáo pháp qua tâm trí từng thừa !!!
Và, không dừng lại ở ba thừa !!! Trong quá trình “xã hội hoá Phật giáo”, để đáp ứng yêu cầu hoằng truyền, để xoa dịu nổi đau và giúp chúng sanh hướng đến sự thiện lương… Bây giờ, Nhân và Thiên thừa có mặt trong hệ thống giáo dục của giáo pháp như một lẽ tất yếu !!! Tuy rằng, Nhân thiên thừa mang dáng dấp của Thế gian đạo, nhưng nó là những hoa trái cuối mùa, làm tăng nét lung linh của giáo pháp trên thân Bồ đề thọ !!!
Cũng chính sự phát triển rộng lớn, một khác biệt khác không thể không nhắc đến là, những thực vật dị chủng đang kí sinh trên thân Bồ đề thọ… Như một cái cây khi phát triển, khó tránh khỏi những thực vật dị chủng kí sinh trên nó !!! Đó là năm chủng tánh vô gián kí sinh trong giáo pháp !!! Năm chủng tánh kí sinh gồm: Thanh văn thừa vô gián chủng tánh, Duyên giác thừa vô gián chủng tánh, Bồ tát thừa vô gián chủng tánh, Ngoại đạo vô gián chủng tánh và Bất định chủng tánh !!!
Cuối cùng, năm thừa và năm chủng tánh vô gián nêu trên, trở thành nhân tố làm cho hệ thống giáo dục Phật giáo vốn nhất quán trở nên dị biệt, vốn thuần tuý minh triết trở thành thần bí, vốn đầy đủ tính chất lí trí trở thành thứ công phu vận luyện mang tính cơ bắp…!!! Đây cũng là lí do vì sao, Phật và chư Hiền Thánh xưa chỉ mất một vài tháng, một vài năm là có thể chứng ngộ giáo pháp, còn hôm nay, chúng ta bỏ công một đời mà sự chứng ngộ ấy tưởng chừng chuyện của ai đó chứ chẳng phải của chúng ta….!!!
Như mọi người đều biết, ngày Thế Tôn còn tại thế, những lời dạy của Ngài chủ yếu là truyền miệng !!! Mà đã là truyền miệng thì khó đảm bảo rằng một mẫu chuyện, một triết lí được giáo huấn bởi người Thầy đầu tiên, sau năm ba thế hệ nghe và kể lại, câu chuyện ấy, triết lí ấy còn trung thực với ý nghĩa ban đầu !!! Chưa nói đến chuyện sức lãnh hội của người nghe, sự thể nhập của đa số quần chúng được nghe thông qua lỗ tai và tâm trí của năm thừa cùng năm chủng tánh sai biệt !!!
Căn cứ vào những gì lịch sử ghi lại !!! Kinh điển của Phật giáo ít nhất được kết tập đến sáu lần, dưới sự bảo trợ của giới cầm quyền vào những thời kì lịch sử khác nhau và gồm những thể chế chính trị khác nhau !!! Sự bảo trợ từ giới cầm quyền, xét đến cùng, cho dù thể chế đó có yêu thích, kính trọng Phật đạo đến thế nào đi nữa thì những gì được tuyên thuyết, biên chép lại nhất định cũng phải phù hợp với thể chế chính trị đó, phải phù hợp với chủ trương “trị quốc an dân” của thời kì lịch sử đó !!! Chưa nói, xu hướng tu tập, mức độ thân chứng, khả năng ghi nhớ, khách quan trong biên tập..vv…của những vị tham dự đại hội là như thế nào ???!!! Ngoài hai việc trên, sự xuất hiện rải rác các bộ kinh do những cá nhân ghi lại qua các chuỗi thời gian khác nhau cùng sự thêm bớt một cách chủ quan, có ý đồ… của người biên tập, cũng khó tránh khỏi những thiên lệch đối với những gì đã được biên chép !!!
Ta thấy:
“Một trăm năm sau Cuộc Kết Tập Lần Thứ Nhất, một cuộc hội họp lớn của Phật Giáo được triệu tập. Có một số tài liệu cho rằng cuộc hội họp nầy xảy ra 110 năm sau khi Phật nhập diệt. Dù thế nào, vào khoảng thời gian ấy, Tăng Ðoàn Phật Giáo chia làm hai nhánh chính, một nhánh được gọi là Theravada hay Thượng Tọa Bộ và nhánh thứ hai là Mahasanghika hay Ðại Chúng Bộ…” (theo Wikipedia) !!! Phật giáo đã phân hoá từ đây !!!
Hay:
“Vua Ajatasattu (A-xà-thế) bảo trợ kỳ kiết tập lần thứ nhất. Kỳ kiết tập này được triệu tập vào 544 (tr.TL) tại động Satiapanni nằm bên ngoài Rajagaha (Vương Xá) ba tháng sau Đức Phật diệt độ. Một miêu tả chi tiết về hội nghị lịch sử này có thể tìm thấy ở trong Cullavagga (Tiểu phẩm) của Luật tạng. Theo tài liệu này, sự việc khiến Trưởng lão Mahakassapa triệu tập hội nghị này là ngài nghe được một nhận xét đáng buồn về luật lệ sống nghiêm khắc dành cho Tăng sĩ…” (theo Wikipedia) !!!
Và:
-“Kỳ kiết tập thứ hai được tổ chức 100 năm sau Đức Phật nhập Niết-bàn để giải quyết một tranh cãi nghiêm trọng về “mười điều”. Điều này đề cập đến một số tu sĩ phạm phải mười giới khinh. Chúng được liệt kê như sau:
1. Chứa muối trong ống bằng sừng.
2. Ăn sau ngọ.
3. Ăn một lần rồi và sau đó lại đi đến một ngôi làng khất thực.
4. Thực hiện lễ Bố-tát (Uposatha) cùng với các vị Tăng ở cùng một trú xứ.
5. Nghị quyết pháp sự khi hội chúng không đầy đủ.
6. Thực hành một số việc mà chúng được Hòa thượng hay giáo thọ sư trước đó làm.
7. Ăn sữa chua/ sữa hòa nước sau giờ ngọ.
8. Uống thức uống (nước trái cây) lên men (để trị bệnh).
9. Sử dụng tọa cụ không đúng kích cỡ.
10. Sử dụng vàng bạc….” (Theo Wikipedia) !!!
-“Kỳ kiết tập thứ 3 được tổ chức chính yếu để tẩn xuất những tu sĩ suy thoái và giả dối, nhưng người theo quan điểm dị giáo. Kỳ kiết tập được triệu tập vào năm 326 (tr. TL) dưới triều Vua Ashoka ở Pataliputta. Trưởng lão Moggaliputta Tissa chủ trì hội nghị này và 1.000 vị Tăng dưới sự bảo trợ của Hoàng đế Ashoka….” (Theo Wikiapedia) !!!
-“Kỳ kiết tập thứ tư được tổ chức ở Tambapanni (Sri Lanka) vào năm 29 (tr.TL) dưới sự bảo trợ của Vua Vattagamani. Lý do chính cho việc triệu tập là do nhận thấy rằng bấy giờ đối với đại đa số các Tăng sĩ, họ không thể nhớ được toàn bộ Tam tạng bằng trí nhớ như trường hợp Tôn giả Mahinda và những người theo ngài ngay sau đó. Do đó, khi việc viết chữ, vào thời điểm đó, về cơ bản đã được phát triển, người ta nghĩ rằng có một bộ đầy đủ trọn vẹn giáo pháp của Đức Phật được viết thành chữ là điều thích hợp và cần thiết. Vua Vattagamani ủng hộ ý kiến của chư Tăng và một hội nghị được tổ chức để rút gọn lại toàn bộ Tam tạng nhằm viết thành văn bản. Do đó, để Pháp chân thực có thể được giữ gìn lâu dài, Tôn giả Maharakkhita và 500 vị Tăng đã tụng đọc lại những lời của Đức Phật và sau đó viết chúng trên lá cọ…” (theo Wikipedia) !!!
-“Kỳ kiết tập thứ 5 được tổ chức ở Mandalay, hiện nay là Miến Điện, vào năm 1871 dưới triều vua Mindon. Chủ đề chính của kỳ hội nghị này là để tụng đọc lại tất cả những lời dạy của Đức Phật và xem xét kỹ lưỡng để xem có điều nào trong đó bị thay đổi, xuyên tạc hay đánh mất không. Hội nghị được chủ trì bởi ba vị Trưởng lão: Mahathera Jagarabhivamsa, Narindabhidhaja và Mahathera Sumangalasami, cùng với khoảng 2.400 vị Tăng. Việc cùng tụng đọc Pháp của họ kéo dài 5 tháng. Cũng chính công việc của hội nghị này đã giúp toàn bộ Tam tạng được viết xuống cho hậu thế ở trên 729 phiến đá bằng chữ Miến sau khi việc tụng đọc được hoàn tất và được mọi người đồng thuận. Công việc vĩ đại này được thực hiện bởi khoảng 2.400 vị Tăng uyên bác và nhiều thợ thủ công thiện xảo…” (theo Wikipedia) !!!
-“Kỳ kiết tập thứ sáu được triệu tập tại Kaba Aye ở Yangon (trước đây là Rangoon) vào năm 1954, 83 năm sau kỳ kiết tập thứ 5 được tổ chức ở Mandalay. Nó được Chính phủ Miến Điện đứng đầu là Thủ Tướng U Nu bảo trợ. Ông cho phép xây dựng Maha Passana Guha, “Đại động”, một động nhân tạo giống như động Sattapanni nơi kỳ kiết tập lần thứ nhất được tổ chức. Kỳ kiết tập được tổ chức vào ngày 7-5-1954. Như trường hợp của những kỳ hội nghị trước, mục đích trước hết của nó là xác quyết và giữ gìn Pháp và Luật chân thật. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là chư Tăng tham gia kỳ kiết tập đến từ 8 quốc gia. Có 2.500 Tăng sĩ quảng học theo truyền thống Theravāda đến từ Miến Điện, Cam Pu Chia, Lào, Tích Lan, Thái Lan và Việt Nam. Cố Hòa thượng Mahasi Sayadaw được chỉ định nhiệm vụ cao quý là đặt những câu hỏi thiết yếu về Pháp cho Hòa thượng Bhadanta Vicittasarabhivamsa, người đã trả lời tất cả một cách tinh thông và làm mọi người hài lòng….” (theo Wikipedia) !!!
Như những gì trích dẫn ở trên, tất cả Kinh Phật mà ta có được hôm nay, cũng đã trải qua sáu lần đại hội !!! Cái được gọi là Nguyên thuỷ cũng chỉ ra đời sau khi Phật nhập Niết bàn hơn 100 năm !!! “Phật giáo Thượng tọa bộ hay Phật giáo Theravada, là một nhánh lớn của Phật giáo hiện đại. Một số tài liệu thường gọi Thượng tọa bộ bằng danh xưng không hoàn toàn chính xác là Phật giáo Nam truyền, Phật giáo Nam tông hay Phật giáo Nguyên thủy. Phật giáo Thượng tọa bộ xuất hiện đầu tiên ở Sri LanKa rồi sau đó được truyền rộng rãi qua nhiều xứ ở Đông Nam Á. Ngày nay, Thượng tọa bộ Phật giáo vẫn rất phổ biến ở Sri Lanka và Đông Nam Á, đồng thời cũng có nhiều tín đồ Phương Tây. Thượng tọa bộ ở Việt Nam còn được gọi là Phật giáo Nguyên thủy dù trong thực tế Thượng tọa bộ chỉ hình thành từ khi Phật giáo phân chia thành các bộ, phái từ Hội nghị kết tập lần thứ hai sau khi Đức Phật nhập diệt khá lâu…” (theo Wikipedia) !!! Vâng, ra đời sau 100 năm lúc Phật nhập diệt, với bao nhiêu thế hệ truyền thừa, có còn được gọi là nguyên thuỷ chăng ???!!!
Có xét đến quá trình hình thành và phát triển, ta mới thấy rằng, kinh điển của Đức Phật để lại, cho dù những bản kinh được coi là nguyên thuỷ hay những bản kinh được coi là của Phật giáo phát triển, ít nhiều cũng đã bị thêm bớt hoặc biên chép sai lệch từ người sau !!! Và một điều chắc chắn, không có một bản kinh nào chính kim thân Đức Thích Ca Mâu Ni viết ra được định hình bởi một văn bản chính thống, cũng không có bản kinh nào không bắt nguồn từ giáo pháp của Đức Bổn Sư cho dù của người sau kể lại !!! Vấn đề là các bản kinh đó xuất hiện vào thời kì lịch sử nào, biên chép theo tinh thần nào, và tinh thần đó có phù hợp cho công cuộc “trị quốc an dân” của thể chế chính trị trong thời kì lịch sử ấy !!!???
Đứng trước thực trạng nêu trên, chúng ta là những người học tập giáo pháp siêu việt của Đức Phật !!! Liệu chúng ta có nên phân biệt, tranh biện kinh nào mới là kinh của Phật, kinh nào là kinh giả hay không !!!???
Phật dạy: “Trong thời mạt pháp, giáo pháp của ta như sữa nguyên chất đã bị bọn con buôn hám lợi pha nước lã đến 50 lần” (Kinh Niết Bàn) !!! Chiếu theo lời dạy trên, một lít sữa giáo pháp nguyên chất của Thế Tôn để lại, hôm nay đã trở thành 51 lít !!! Trong một hổn hợp bị pha loãng như thế, để tìm ra đâu là sữa, đâu là nước lã là chuyện không hề dễ dàng !!! Nhưng rồi, cũng trong kinh Niết Bàn, Phật đã dạy: “Nhưng có loài Nga vương, đứng trước hổn hợp sữa pha nước lã như thế, khi con Nga vương đưa mỏ vào hút, nó chỉ hút sữa còn nước lã thì để lại…” !!! Như vậy, đứng trước rừng kinh điển bị pha tạp của ngày hôm nay, tại sao ta không hút lấy tinh tuý như con Nga vương hút sữa, mà lại đi tranh biện thùng nào mới là sữa nguyên chất, thùng nào là nước lã !!!???
Các bạn !!!
Bản chất mọi con đường, tự thân nó không hề có đúng sai !!! Bản chất của các pháp cũng như thế !!! Một con đường nào đó chỉ đúng hay sai khi người đi đặt ra mục tiêu mình cần đến… Nếu con đường nào đưa ta đến mục tiêu, con đường đó là đúng !!! Như vậy, ta nên ngồi đó phê phán các con đường là đúng hay sai, hay ta nên đặt ra mục tiêu cần đến trước, rồi sau đó chọn con đường phù hợp !!!???
Mục tiêu cao nhất của Phật đạo là gì ??? Để đến được mục tiêu cao cả ấy ta cần bao nhiêu bước ??? Khi các bạn tìm thấy các bước đi của đạo và mục tiêu cao cả của giáo pháp là gì ??? Mình tin rằng, lúc ấy nhất định các bạn sẽ tìm thấy thứ sữa giáo pháp nguyên chất được pha loãng trong những thùng sữa từ tay các con buôn hám lợi !!!
Đối với HĐ Lý Gia, mình hi vọng sau những buổi trao đổi vừa rồi, các bạn sẽ có được sự tự tin nhất định trong tu tập, biết rõ mục tiêu mình cần đến, biết rõ con đường nào ta cần phải đi !!! Khi biết được như thế, sự thực chứng của bản thân chính là thước đo tốt nhất, là công cụ kiểm chứng tối ưu để biết rằng con đường ta đang đi là đúng hay sai trong những con đường được ghi lại trong rừng giáo pháp mà ta có trong tay hôm nay !!!
Và, với sự tự tin đã có, nhất định chúng ta sẽ không tốn công sức vào vòng xoáy tranh biện vô bổ về chuyện kinh nào mới là thật, kinh nào là kinh giả !!! Hãy làm một con Nga vương thông tuệ thực thụ như lời Đức Phật đã dạy đi các bạn !!!
LÝ TỨ
26/11/2021
- HÌNH ẢNH 746; 747; 748; 749; 750 VÀ HĐ CHỨNG MINH !!!
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






