Chánh Kiến
Chánh kiến hay chánh tri kiến là một điều chánh trong tám điều chân chánh của Phật giáo có tên Bát Chánh Đạo. Chánh kiến là nhận thức đầu tiên và cũng là đích đến. Vì thế chánh kiến được thay đổi liên tục trong suốt quãng đường để phù hợp với cung đường mới. Chánh kiến là sự thấy biết đúng đắn làm cơ sở quyết định lựa chọn phương tiện phù hợp.

Chánh kiến hay chánh tri kiến là một điều chánh trong tám điều chân chánh của Phật giáo có tên Bát Chánh Đạo.
Bát chánh đạo gồm: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định. Bát chánh đạo là tám phẩm trong ba mươi bảy phẩm, được coi là tổng thể làm nên phần đạo của Phật giáo.
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo gồm: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, và Bát chánh đạo phần. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là con đường tu tập của Phật đạo được xây dựng trên cơ sở tứ diệu đế. Hai món này liên quan mật thiết với nhau.
Tứ diệu đế được ví như bốn cung đường trong toàn bộ quãng đường thì ba mươi bảy phẩm là những cột mốc mà người lữ hành phải vượt qua. Mỗi cột mốc đánh dấu mục tiêu trước mắt mình phải hướng đến. Vượt qua cột mốc nào là bỏ lại sau lưng chừng ấy đoạn đường đời cần từ bỏ, từ bỏ nhiều bao nhiêu mục tiêu đến gần bấy nhiêu. Mỗi cung đường tứ diệu đế là một thay đổi lớn trong nhận thức. Mỗi cột mốc là sự thành tựu trọn vẹn nhận thức đó. Nhận thức được thay đổi và thành tựu liên tục cho đến viên mãn hành trình nhận thức mới chấm dứt.
Chánh kiến là nhận thức đầu tiên và cũng là đích đến. Vì thế chánh kiến được thay đổi liên tục trong suốt quãng đường để phù hợp với cung đường mới. Chánh kiến là sự thấy biết đúng đắn làm cơ sở quyết định lựa chọn phương tiện phù hợp.
Tứ diệu đế được coi là công thức giải bài toán khổ thì 37 phẩm là phần ứng dụng công thức để cho ra kết quả diệt khổ và đế là những ẩn số.
Ẩn số ‘x,y’ được thay bằng ‘thân, thọ, tâm, pháp’; ‘x,y’ chỉ ra cái gì là khổ niệm xứ và phương thức giải quyết ‘x,y’.
Niệm xứ gọi là đế, tức là dựa trên nguyên lý cái gì kiết sử nương vào để làm khổ đau thì giải quyết tận gốc cái đó. Bốn món ‘thân, thọ, tâm, pháp’ là mảnh đất để kiết sử dựa vào làm nhân sinh khổ.
Mỗi thừa thấy nhân sinh khổ khác nhau, vì thế ba thừa ra đời và mỗi thừa giải quyết tận gốc một căn nguyên sinh khổ. Khi căn nguyên đã diệt thì thứ nguyên tự diệt. Giống như rễ cái của một gốc cây đã bị chặt đứt thì rễ con không thể giữ vững và chỉ cần một tác động nhỏ nhất định thân cây ngã đổ.
Thân, thọ, tâm, pháp chính là bốn chiếc rễ cái. Khi niệm xứ này là rễ cái thì ba món còn lại sẽ là rễ phụ. Mỗi thừa tìm cách diệt chiếc rễ cái của mình thì cây đại thụ khổ não không còn.
Chánh kiến chính là nhắm thẳng vào niệm xứ chính và đề ra phương cách giải quyết. Phương cách giải quyết là tổng thể 37 phẩm trợ đạo, tức là toàn bộ hệ thống kinh điển cho một thừa. Mỗi thừa trên con đường tiến về Vô Thượng Bồ Đề có nhiều địa vị, mỗi địa vị lại có một nhận thức mới về nguyên nhân sanh khổ và bây giờ chánh kiến lại phải thay đổi.
Cứ như vậy Phật tri kiến là chánh kiến cuối cùng của người tu hành, nên Phật giáo mới có tục đế, thánh đế, chân đế, và chân. Chân tức là sự thật này không dựa vào một cái gì hết, có nghĩa tự chân hay còn gọi là thiệt tướng.
Như đã nói ở phần trước, ba mươi bảy phẩm xoay quanh trục tứ đế, nên chánh kiến cũng xoay quanh trục này. Ba thừa y nơi bốn đế để giác ngộ nên chánh kiến cũng có mặt trong ba thừa, hay nói khác hơn chánh tri kiến có mặt trong từng Phật tử, từ lúc Quy Y Tam Bảo cho đến chứng Vô Thượng Bồ Đề. Do đó chánh kiến là điều kiện cần có để đưa chúng sanh từ vô minh đến giác ngộ. Chánh kiến của mỗi người tu hành khác nhau vì mỗi người sức giác ngộ khác nhau.
Ba thừa giác ngộ theo chỗ riêng của mình nên chánh tri kiến của họ cũng rất riêng. Kinh gọi: “Tuỳ chỗ diệt mà được thiệt tướng của các pháp.”
Ba thừa chánh kiến không giống nhau. Có khi chánh kiến của thừa này chống trái với chánh kiến của thừa kia. Chánh kiến của Bồ Tát trái với Thanh Văn. Thừa này không thể hiểu biết như thừa kia nên không dùng tri kiến thừa này làm hết khổ thừa kia.
Do chánh kiến đi đầu nên bảy thứ chánh còn lại cũng y trên thấy biết của chánh kiến mà vận động.
Trong quá trình vận động của bát chánh đạo hệ quả tất yếu sẽ cho ra đầy đủ ‘Giới-định-huệ’.
Có thể nói: ‘chánh kiến, chánh tư duy, chánh niệm’ thuộc về ‘huệ’.
‘Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng’ thuộc về ‘giới’.
Và ‘chánh tinh tấn, chánh định’ thuộc về ‘định’.
Tam vô lậu này dẫn người tu hành về thẳng cứu cánh Niết Bàn. Vì thế bát chánh đạo vừa là nhân cũng vừa là quả trong Phật đạo. Đây là môi trường dưỡng nuôi thánh nhân đồng thời cũng là môi trường sống của thánh quả.
Trong cuộc đời tu hành, mỗi một người có thể nhiều lần giác ngộ, từ cạn đến sâu, giác ngộ đến Phật quả mới thôi. Nên chánh kiến của mỗi người cũng thay đổi vào từng thời điểm và từng giai đoạn giác ngộ. Chánh tri kiến cuối cùng của Phật giáo là Phật tri kiến. Bao giờ chưa thấy biết thông suốt như Phật thì chánh tri kiến còn phải thay đổi.
Trái ngược với bát chánh là bát tà. Tức những thấy biết, suy nghĩ, nói năng, hành động, giữ gìn, điều phục thân tâm ngược lại với những gì chánh kiến đã thấy. Nói khác là pháp nào có khuynh hướng không theo điều đã giác và không phục vụ để giác ngộ đều gọi là tà. Vì thế mới có tên gọi tà pháp, tà kiến.
Ví dụ Thanh Văn thấy ba cõi đáng trú không có tâm nhàm lìa, Thanh Văn thấy biết như vậy là tà kiến. Bồ Tát thấy ba cõi đáng nhàm lìa, đáng bị rời bỏ, Bồ Tát thấy như vậy là tà kiến.
Do vậy cũng đồng sự từ bỏ ba cõi mà thừa này là tà, thừa kia lại chánh. Chánh tà tùy theo điều đã giác.
Xét tổng thể Phật đạo chánh tà không có nghĩa quyết định cho từng thừa, chỉ có một điều mang ý nghĩa quyết định tối hậu, đó là ‘bất kỳ thừa nào không phát tâm Vô Thượng Bồ Đề’ đều là ‘tà kiến’.
Như vậy có thể khái niệm chánh kiến là nhận thức như pháp, là phương châm hành động, là cách thức đúng đắn của Phật giáo nhằm mục tiêu cởi trói, dẫn dắt chúng sanh từ bờ này sang bờ kia an vui và đích đến là Vô Thượng Bồ Đề.
Xin giới thiệu đoạn trích trong Đại Trí Độ Luận của Bồ Tát Long Thọ. Đoạn trích này có thể thấy được những gì là chánh kiến:
“Hỏi: Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là đạo của Thanh Văn và Bích Chi Phật; sáu Ba La Mật là đạo của Bồ Tát Ma Ha Tát. Đây vì sao trong Bồ Tát đạo còn nói đến pháp Thanh Văn?
Đáp: Bồ Tát Ma Ha Tát phải học tất cả các thiện pháp, tất cả đạo; như Phật nói với Tu Bồ Đề: “Bồ Tát Ma Ha Tát thực hành Bát Nhã Ba La Mật đều phải học tất cả các thiện pháp, tất cả đạo; đó là từ Càn huệ địa cho đến Phật địa. Chín địa ấy nên học mà không thủ chứng; Phật địa cũng học và cũng thủ chứng.
Lại nữa, chỗ nào nói ba mươi bảy phẩm trợ đạo chỉ là pháp Thanh Văn, Bích Chi Phật, chứ không phải là pháp Bồ Tát?
Chính trong phẩm Đại thừa của kinh Bát Nhã Ba La Mật, Phật nói bốn niệm xứ, cho đến tám thánh đạo phần là Đại thừa. Trong Tam tạng cũng không nói ba mươi bảy đạo phẩm chỉ là pháp Tiểu thừa. Phật vì tâm đại từ nên nói ba mươi bảy đạo phẩm là đạo Niết Bàn; tùy nguyện của chúng sanh, tùy nhân duyên của chúng sanh đều chứng được đạo ấy. Người muốn cầu Thanh Văn thì đắc Thanh Văn đạo; người muốn gieo giống thiện căn về Bích Chi Phật thì đắc Bích Chi Phật đạo; người cầu Phật đạo thì đắc Phật đạo. Tùy bản nguyện và các căn lanh lợi hay đần độn, có tâm đại bi, không tâm đại bi; ví như Long vương xuống mưa, mưa khắp thiên hạ, mưa không sai khác, cây lớn cỏ lớn, gốc lớn cho nên thọ nhận nhiều; cây nhỏ cỏ nhỏ, gốc nhỏ cho nên thọ nhận ít.
………………………………………………………
Hỏi: Bốn niệm xứ là pháp có thể đầy đủ đắc đạo, sao còn nói đến ba mươi bảy phẩm? Nếu ông cho vì nói lược nên nói bốn niệm xứ, nói rộng nên nói ba mươi bảy phẩm. Điều ấy không đúng, vì cớ sao, nếu nói rộng thời phải vô lượng?
Đáp: Bốn niệm xứ tuy là đầy đủ để có thể đắc đạo, mà cũng nên nói Bốn chánh cần, vì cớ sao? Vì tâm chúng sanh chủng loại bất đồng, kiết sử cũng nhiều thứ, pháp ưa thích hiểu biết cũng nhiều thứ.
Phật pháp tuy nhất thật nhất tướng, song vì chúng sanh nên nơi mười hai bộ kinh, phân biệt thuyết ra tám vạn bốn ngàn pháp tụ. Nếu không như vậy, đầu tiên chuyển pháp luân, nói đến Bốn đế là đủ, không cần nói thêm pháp khác. Vì có hạng chúng sanh nhàm khổ, đắm vui, nên thuyết ra Bốn đế. Những pháp thân tâm có được đều là khổ, không có vui. Nguyên nhân của khổ ấy là do các phiền não tham ái v.v…. Nơi khổ ấy đoạn tận là Niết Bàn; phương tiện đi đến Niết Bàn đó gọi là đạo.
Có hạng chúng sanh niệm nhiều loạn tâm điên đảo, nên đắm theo thân, thọ, tâm, pháp ấy mà làm các hạnh tà. Vì hạng người đó nên nói ra Bốn niệm xứ. Các đạo pháp khác cũng như vậy, vì mỗi chúng sanh mà thuyết, ví như thầy thuốc không dùng một thứ thuốc trị tất cả các bệnh. Các bệnh không đồng, thì thuốc cũng chẳng một thứ. Phật cũng như vậy, vì tâm bệnh của chúng sanh nhiều thứ nên Phật dùng nhiều thứ thuốc để trị.
Hoặc thuyết một pháp để độ chúng sanh; như Phật nói với một Tỳ Kheo: “Chẳng phải vật của ngươi thì chớ lấy.”
Tỳ Kheo nói: “Biết rồi.”
Phật hỏi: “Biết thế nào?”
Tỳ Kheo nói: “Những pháp không phải vật của tôi thì không nên lấy.”
Hoặc dùng hai pháp để độ chúng sanh, đó là định và tuệ.
Hoặc dùng ba pháp là giới-định-tuệ.
Hoặc dùng bốn pháp là Bốn niệm xứ.
Thế nên Bốn niệm xứ tuy có thể đắc đạo, nhưng các pháp khác hành trì có khác, phân biệt hơi khác, quán sát cũng khác. Do vậy nên phải nói các pháp như Bốn chánh cần, v.v….
Lại nữa, các Bồ Tát Ma Ha Tát vì có tín lực lớn, vì độ hết thảy chúng sanh, nên trong một lúc Phật nói đủ ba mươi bảy đạo phẩm. Nếu nói pháp khác làm cửa vào đạo, thời mười tưởng, v.v. đều thu nhiếp cả trong ba mươi bảy đạo phẩm.
Ba mươi bảy đạo phẩm ấy là các thứ thuốc hòa hợp lại, đủ chữa lành mọi bệnh của chúng sanh, cho nên không cần thuyết nhiều. Như Phật tuy có vô lượng trí lực, nhưng chỉ nói mười lực là đủ cho việc độ chúng sanh.
Ba mươi bảy đạo phẩm này, lấy mười pháp làm căn bản. Những gì là mười? Đó là tín, giới, tư duy, tinh tấn, niệm, định, tuệ, trừ, hỷ, xả.
Tín là Tín căn, Tín lực.
Giới là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.
Tinh tấn là Bốn chánh cần, Tinh tấn căn, Tinh tấn lực, Tinh tấn giác phần, Chánh tinh tấn.
Niệm là Niệm căn, Niệm lực, Niệm giác phần, Chánh niệm.
Định là Bốn như ý túc, Định căn, Định lực, Định giác phần, Chánh định.
Tuệ là Bốn niệm xứ, Tuệ căn, Tuệ lực, Trạch pháp giác phần, Chánh kiến.
Các pháp ấy, niệm tùy thuận theo cảnh duyên của trí tuệ mà được chơn chánh an trụ, nên bấy giờ gọi là Niệm xứ. Phá tà pháp, đi trong chánh đạo, nên gọi là Chánh cần. Nhiếp tâm an ổn ở trong quán duyên, nên gọi là Như ý túc. Tri tâm được nhu nhuyến, gọi là Căn; tri tâm được lanh lợi gọi là Lực. Dùng để tu đạo nên gọi là Giác, dùng để thấy đạo nên gọi là Đạo….”[[1]]
Nói đến chánh kiến là nói đến phạm vi rộng lớn, nếu không quy kết chánh kiến muốn nói thuộc phạm vi nào thì chánh kiến chưa có ý nghĩa gì hết. Bởi lẽ bản thân chữ chánh kiến chưa nói lên được điều gì, mà chánh kiến cần phải đi kèm với chủ thể sản sinh ra nó.
Mỗi quốc gia, tôn giáo, cộng đồng, tổ chức đều có chủ trương, quan điểm, quy tắc của riêng mình. Người theo tổ chức nào thì y theo quan điểm và luật tắc của tổ chức đó, những thứ họ nhận thức y đây hành xử để đạt được mục đích đã đề ra gọi là chánh kiến.
Chánh kiến như vậy hoàn toàn đúng đắn với những người cùng tổ chức và tổ chức của họ. Ví dụ đạo A có chánh kiến của đạo A, tổ chức B có chánh kiến với tổ chức B, ông C có chánh kiến của ông C. Những thấy biết, nguyên tắc và hành xử đúng như những gì các tổ chức đó đặt ra và định hướng đều là chánh kiến.
Các tôn giáo thường có một số điều gần giống như nhau, cũng dạy người ăn hiền, ở lành, biết thương người khác, hiếu thảo cha mẹ, tưởng nhớ ông bà tổ tiên v.v…, những điều na ná như nhau không có nghĩa chánh kiến của các tôn giáo hoặc tổ chức giống nhau hay là một thứ.
Thông thường người ta gộp chung những điều như vậy vào “đạo nào cũng dạy ăn hiền ở lành...” vô hình trung, coi đây như là chánh kiến của nhau.
Sự không phân biệt rạch ròi này đưa đến hệ quả là không tìm hiểu thấu đáo mục đích tối hậu của tôn giáo hay tổ chức kia là gì, và hướng người trong tôn giáo đó đi đâu và về đâu?
Thật ra mỗi tôn giáo, tổ chức, ngoài những điều nói trên còn có phần sâu, tạm gọi tinh túy và mục đích riêng của họ. Những tinh túy này mới là phần làm nên chánh kiến của tôn giáo ấy, và chánh kiến này mới thật sự đưa người theo tôn giáo đó đến mục đích mà tôn giáo hoặc tổ chức đó đề ra.
Ví dụ buổi sáng ra đường, thấy mọi người ra khỏi nhà và cùng đi về một hướng của con đường. Tất nhiên cùng trên con đường thì đi về một hướng, nhưng đến ngã tư không phải mọi người cùng rẽ một phía. Từ đây mỗi người đi về hướng của mình tùy theo nghề nghiệp, trách vụ, và công chuyện.
Nơi mỗi người rẽ một hướng mới chính là mục tiêu người đó phải đến, không ai giống ai. Hướng họ phải đến là chánh kiến, và nơi họ đến là mục đích hay cứu cánh.
Do vậy khi nói đến Chánh Kiến Phật giáo, là nói đến cái riêng và phần sâu của Phật giáo. Tất nhiên Phật giáo cũng có một vài điều cơ bản như các tôn giáo khác.
Nhưng tinh túy và đích đến của Phật giáo khác xa và không giống bất kỳ một tôn giáo nào có mặt trên thế giới. Bởi lẽ nếu có tổ chức hoặc tôn giáo nào hoàn toàn giống Phật giáo từ cơ bản đến sâu thẳm thì đó chính là Phật giáo. Không thể gọi tên khác, nếu gọi tên khác thì nhất định có gì đó không giống.
Ví dụ ông A giống hệt ông B, và cùng là anh em ruột, như vậy không có nghĩa ông A là ông B. Nhất định ông A có cái gì đó mà ông B không có, nên mới gọi A và B.
Như vậy chánh kiến của Phật giáo gồm những gì và dựa vào đâu để có?
[[1]] trích Đại Trí Độ Luận của Bồ Tát Long Thọ.
(còn nữa)
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






