Thiền Và Các Ba La Mật
Thiền và các Ba La Mật không phải hai món, cái này viên mãn cái kia viên mãn, trong một độ nhiếp năm độ. Không có một Ba La Mật riêng, nơi mỗi pháp đã tự sẵn đủ Ba La Mật chỉ vì mê tâm che chướng, một phen giác ngộ thì pháp giới chúng sanh đồng Ba La Mật.

Thiền Định Ba La Mật là hình thức hóa thân của Thiền Na. Nếu Thiền Na còn chút gì đó của thân chứng thì Thiền Định Ba La Mật là khâu cuối cùng làm sạch hóa vi tế tâm bằng công hạnh Bố Thí Ba La Mật.
Thiền Na y thanh tịnh tâm bố thí thì Thiền Định Ba La Mật làm mất đi tự thân bố thí. Đưa pháp nhĩ trở về bản nguyên thanh tịnh tự có gọi là Bố Thí Ba La Mật. Thiền Định Ba La Mật được giảng giải nhiều trong kinh Đại Bát Nhã. Nếu Thiền Na là vùng trắng tâm ý thức thì Thiền Định Ba La Mật là hạt giống nhất thiết trí được gieo trồng trên vùng đất này.
Sự tự tại của Thiền Na chưa phải tất cả, nếu tự tại này có thể chuyển về phía chúng sanh thì Bát Nhã trí mới hiện. Vì thế Bồ Tát phải thành tựu các môn giải thoát trong đó có các phương tiện. Nếu phương tiện thuần thục khi hóa độ chúng sanh thì phương tiện này mới trở thành tam muội. Đoạn kinh sau mô tả Bồ Tát tự tại trong vùng trắng tự tâm:
“Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu vị Bất thối chuyển Bồ Tát Ma Ha Tát muốn vào sơ tĩnh lự tức tùy ý năng vào; muốn vào đệ nhị, đệ tam, đệ tứ tĩnh lự cũng tùy ý năng vào. Muốn vào từ vô lượng tức tùy ý năng vào, muốn vào bi hỷ xả vô lượng cũng tùy ý năng vào. Muốn vào định không vô biên xứ tức tùy ý năng vào; muốn vào định thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng tùy ý năng vào. Muốn khởi bốn niệm trụ tức tùy ý năng khởi; muốn khởi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi cũng tùy ý năng khởi.
Muốn khởi sơ giải thoát tức tùy ý năng khởi, muốn khởi đệ nhị giải thoát cho đến đệ bát giải thoát cũng tùy ý năng khởi. Muốn khởi sơ thắng xứ tức tùy ý năng khởi, muốn khởi đệ nhị thắng xứ cho đến đệ bát thắng xứ cũng tùy ý năng khởi. Muốn vào định sơ tĩnh lự tức tùy ý năng vào, muốn vào định đệ nhị tĩnh lự cho đến định diệt thọ tưởng cũng tùy ý năng vào. Muốn khởi sơ biến xứ tức tùy ý năng khởi, muốn khởi đệ nhị biến xứ cho đến đệ thập biến xứ cũng tùy ý năng khởi. Muốn khởi không giải thoát môn tức tùy ý năng khởi; muốn khởi vô tướng, vô nguyện giải thoát môn cũng tùy ý năng khởi. Muốn dẫn phát năm thần thông tức tùy ý năng dẫn phát.
Thiện Hiện! Bồ Tát Ma Ha Tát này tuy vào sơ tĩnh lự mà chẳng thọ quả sơ tĩnh lự; tuy vào đệ nhị, đệ tam, đệ tứ tĩnh lự mà chẳng thọ quả đệ nhị, đệ tam, đệ tứ tĩnh lự. Tuy vào từ vô lượng mà chẳng thọ quả từ vô lượng, tuy vào bi hỷ xả vô lượng mà chẳng thọ quả bi hỷ xả vô lượng. Tuy vào định không vô biên xứ mà chẳng thọ quả định không vô biên xứ; tuy vào định thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ mà chẳng thọ quả định thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tuy khởi bốn niệm trụ mà chẳng thọ quả bốn niệm trụ, tuy khởi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi mà chẳng thọ quả bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi.
Tuy khởi sơ giải thoát mà chẳng thọ quả sơ giải thoát, tuy khởi đệ nhị giải thoát cho đến đệ bát giải thoát mà chẳng thọ quả đệ nhị giải thoát cho đến đệ bát giải thoát. Tuy khởi sơ thắng xứ mà chẳng thọ quả sơ thắng xứ, tuy khởi đệ nhị thắng xứ cho đến đệ bát thắng xứ mà chẳng thọ quả đệ nhị thắng xứ cho đến đệ bát thắng xứ. Tuy vào định sơ tĩnh lự mà chẳng thọ quả định sơ tĩnh lự, tuy vào định đệ nhị tĩnh lự cho đến định diệt thọ tưởng mà chẳng thọ quả định đệ nhị tĩnh lự cho đến định diệt thọ tưởng. Tuy khởi sơ biến xứ mà chẳng thọ quả sơ biến xứ, tuy khởi đệ nhị biến xứ cho đến đệ thập biến xứ mà chẳng thọ quả đệ nhị biến xứ cho đến đệ thập biến xứ. Tuy khởi không giải thoát môn mà chẳng thọ quả không giải thoát môn; tuy khởi vô tướng, vô nguyện giải thoát môn mà chẳng thọ quả vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tuy dẫn phát năm thần thông mà chẳng thọ quả năm thần thông.
Thiện Hiện! Do nhân duyên đây, Bồ Tát Ma Ha Tát này chẳng tùy vô lượng tĩnh lự thảy và đến thế lực các công đức khác mà thọ sanh, cũng chẳng chứng quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc Độc Giác Bồ Đề. Thiện Hiện! Bồ Tát Ma Ha Tát này vì muốn lợi vui các hữu tình, nên tùy muốn nhiếp thọ chỗ ứng thọ thân tức tùy sở nguyện đều năng nhiếp thọ.”[[1]]
- Bồ Tát do phát tâm mà có, nếu không phát tâm cứu độ chúng sanh thì danh tự Bồ Tát chẳng thể được. Ngoài việc phát tâm Bồ Tát phải phát nguyện rộng sâu bền chặt.
- Phát tâm là phát tâm thành tựu quả Phật, phát nguyện là nguyện đời đời làm lợi ích chúng sanh.
Trong kinh thường thấy các Đại Bồ Tát phát nhiều nguyện như Văn Thù trong kinh Hoa Nghiêm có gần 200 nguyện, mỗi một nguyện đều hồi hướng cho chúng sanh. Trong kinh cũng có nói chỉ cần một chúng sinh duyên đáng được độ, Bồ Tát có thể theo người này nhiều đời kiếp, khi làm cầm thú, khi làm người, khi làm đầy tớ, khi làm quyến thuộc v.v..., nghĩa là chúng sanh kia chưa giác ngộ thì Bồ Tát chưa thôi hóa độ.
- Đây cũng là điều kiện để Bồ Tát viên mãn tứ vô lượng tâm:
“Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma Ha Tát hằng khởi đại bi? Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát khi tu Bồ Tát hạnh tác lên nghĩ như vầy: "Ta vì nhiêu ích tất cả hữu tình, giả sử kiếp đều như hằng hà sa vô lượng vô số, ở đại địa ngục chịu các khổ dữ dội, hoặc thiêu hoặc nướng, hoặc chém hoặc dứt, hoặc đâm hoặc treo, hoặc xay hoặc giã, chịu những như thế vô lượng việc khổ. Vì muốn khiến nó cưỡi nơi xe Phật thừa mà vào Niết Bàn.” Tất cả cõi hữu tình như vậy hết xong, mà lòng đại bi từng không nhàm mỏi. Đấy là Bồ Tát Ma Ha Tát hằng khởi đại bi.”[[2]]
Bồ Tát phải phát tâm Vô Thượng Bồ Đề chơn thiệt, tức phát tâm thành Phật. Vì chỉ thành Phật mới đủ công đức và trí tuệ giáo độ nhiều chúng sanh, nhiều căn cơ, nhiều loài. Bồ Tát thì giới hạn trong lãnh vực này nên thành Phật mới viên mãn bi tâm, tâm Bồ Tát mới rộng lớn.
Trong kinh có đề cập những Đại Bồ Tát đã độ vô số chúng sanh thành Phật mà tự thân đến nay còn làm công hạnh. Hoặc có vị phát tâm khi nào còn chúng sanh thì mình chưa thành Phật.
Bồ Tát hóa độ chúng sanh là một trong những cách giúp mình mau chứng Vô Thượng Bồ Đề. Đây là con đường duy nhất để thành tựu Bát Nhã Ba La Mật. Trong kinh Phật có nói sở dĩ Bồ Tát Thích Ca thành Phật trước Bồ Tát Di Lặc chín kiếp vì Thích Ca viên mãn công hạnh còn Di Lặc chưa viên. Vì vậy công hạnh hóa độ rất quan trọng đối với Bồ Tát.
“Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma Ha Tát nên viên mãn nhiếp thọ vô biên xứ sở đại nguyện, tùy có chỗ sở nguyện đều khiến cho viên mãn? Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát đã tu đủ sáu Ba La Mật Đa cực viên mãn rồi, hoặc vì để nghiêm tịnh các cõi nước Phật, hoặc vì để thành thục các loại hữu tình, tùy tâm sở nguyện đều được viên mãn. Đấy là Bồ Tát Ma Ha Tát nên viên mãn nhiếp thọ vô biên xứ sở đại nguyện, tùy có chỗ sở nguyện đều khiến cho viên mãn.”[[3]]
Bồ Tát gồm Bồ Tát vô vi và Bồ Tát nhục thân (hữu vi).
Bồ Tát vô vi là những vị chỉ xuất hiện khi có Phật, hoặc xuất hiện vào thời điểm chúng sanh cần đến. Bồ Tát nhục thân là những vị có thân như chúng sanh, cũng tu hành như chúng sanh, cũng sinh hoạt như chúng sanh, nhưng trí huệ thì không thể nghĩ bàn. Có nhiều vị thị hiện trong hàng Thanh Văn, trong cầm thú, trong qủy dữ v.v..., nghĩa là nơi nào có chúng sanh thì có Bồ Tát. Trong kinh Phật nói Bồ Tát nhiều không thể đếm như cát sông Hằng.
- Kinh Phật cũng dạy trong cõi Ta Bà, Bồ Tát thị hiện lớn nhất bằng con voi, nhỏ nhất bằng chim khổng tước, trừ những thế giới khác. Bồ Tát cũng có rất nhiều địa vị, thấp nhất là Sơ Phát Tâm, cao nhất là Diệu Giác.
Ngoài ra cũng có Bồ Tát đời kế thành Phật gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ, thân sau cùng là Tối Hậu thân. Bồ Tát vào cung trời Đâu Suất chuẩn bị thành Đẳng Chánh Giác gọi là Hậu Biên thân. Tất cả các kinh, Phật đều khen ngợi Bồ Tát.
Với những đặc tính như vậy, pháp Phật thuyết cho Bồ Tát như kinh nói là thâm sâu không thể nghĩ bàn, siêu quá ức tưởng thế gian, thậm chí Thanh Văn Duyên Giác còn không thể nào suy nghĩ đến được:
“Từ xưa chư Bồ Tát này cùng với Tỳ Lô Giá Na Như Lai đồng tu tập thiện căn, thật hành Bồ Tát hạnh, từ biển căn lành của Như Lai sanh ra, đã đầy đủ các môn Ba La Mật, huệ nhãn sáng suốt thấy ba đời, nơi các môn tam muội đều đầy đủ thanh tịnh, biện tài rộng lớn vô tận như biển, đủ công đức Phật tôn nghiêm đáng kính, biết căn tánh của chúng sanh thuận theo giáo hóa điều phục, vào tạng pháp giới, trí vô phân biệt, chứng giải thoát của Phật rất sâu rộng lớn, có thể tùy phương tiện, vào nơi một bực mà dùng tất cả hạnh nguyện, thường đi chung với trí tuệ, cùng tận thuở vị lai rõ thấu cảnh giới bí mật rộng lớn của chư Phật, khéo biết tất cả pháp bình đẳng của Phật, đã đi trên bực Phổ Quang Minh của Như Lai, nhập nơi vô lượng môn tam muội, đều tùy loại hiện thân khắp tất cả chỗ, đồng sự với thế gian mà thật hành thế pháp, tổng trì rộng lớn chứa nhóm tất cả pháp, biện tài thiện xảo chuyển pháp luân bất thối, biển cả công đức của tất cả Như Lai đều vào nơi thân của các ngài, tất cả quốc độ của chư Phật các ngài đều phát nguyện đi đến, đã từng cúng dường tất cả chư Phật trải qua vô biên số kiếp luôn hoan hỷ không nhàm, chỗ tất cả chư Phật chứng đạo Bồ Đề các ngài thường ở trong đó gần gũi không rời, thường đem nguyện thệ Phổ Hiền đã được, làm cho trí thân của tất cả chúng sanh đều đầy đủ. Chư Bồ Tát trên đây trọn nên vô lượng công đức như vậy.”[[4]]
- Với công đức và nghĩa lý thậm thâm như vậy, đời sau có nên đề cập đến Thiền Định Ba La Mật, hay giảng nói tu hành pháp đại thừa không?
- Không lẽ đây là nơi chốn bất khả xâm phạm, chỉ có Phật với Bồ Tát mới có thể nói cho nhau nghe, còn chúng phàm phu đời sau thì vô phương?
Mà trong kinh thì Phật thường hay khen ngợi đời sau có người nào biên chép, giảng nói kinh này công đức vô lượng vô biên. Nếu như lời nói kia thì Phật thuyết kinh để người đời sau biên chép giảng nói, và nhất định là để tu học. Không những đời sau mà tận cùng đời mạt pháp cũng như vậy thì Phật giáo mới là thường, Tam Bảo mới thường trụ.
- Do đó là Phật tử thì phải tin Phật, mà tin Phật thì tìm hiểu tu hành. Giảng nói biên chép Bồ Tát pháp nhất định không sai, nếu không nói đây là hoài bão của chư Phật.
Kinh thường nói pháp tu chánh trọng của Bồ Tát là lục độ Ba La Mật. Bồ Tát dùng sáu độ này dạo khắp ba cõi làm công hạnh, bởi ở đây có đủ công đức, trí tuệ vô thượng. Do bi tâm lớn hơn tất cả tâm nên sau khi phát tâm chơn thiệt Vô Thượng Bồ Đề, Bồ Tát như chỗ phát tâm mà bố thí, trì giới, nhẫn nhục v.v..., sau đó đầy đủ trí huệ Ba La Mật.
Đầy đủ trí tuệ Bồ Tát quán tâm chúng sanh phát sinh lân mẫn nên chúng sanh duyên từ đầy đủ; chúng sanh duyên từ đầy đủ duyên bi, hỷ, xả đầy đủ; duyên từ bi hỷ xả đầy đủ các pháp bất cộng đầy đủ; do các pháp bất cộng đầy đủ mà bốn vô ngại trí đầy đủ; bốn vô ngại trí đầy đủ thập bát bất cộng đầy đủ; thập bát bất cộng đầy đủ ba mươi bảy phẩm đầy đủ; ba mươi bảy phẩm đầy đủ bốn đế đầy đủ; bốn đế đầy đủ chơn đế đầy đủ; chơn đế đầy đủ nên gọi là chơn.
Là chơn, nên như Phật xưa nói các thứ pháp, như chư Phật xưa nói các thứ pháp gọi là Như Lai. Như tiền thân Bồ Tát hành hạnh nhẫn nhục, hành hạnh bố thí, hoặc các ví dụ trong kinh. Đây là những việc làm ra khỏi nghĩ bàn, ra khỏi nghĩ bàn ba cõi cho đến Thanh Văn Duyên Giác cũng không biết được. Bởi trong mỗi một độ nhiếp đủ năm độ kia. Lúc Bồ Tát phát tâm chơn thiệt đã đủ tất cả vì các pháp tự Ba La Mật.
“Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma Ha Tát nên viên mãn sáu Ba La Mật Đa? Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát viên mãn sáu pháp Ba La Mật Đa, vượt khỏi các bậc Thanh Văn và Độc Giác. Lại trụ sáu Ba La Mật Đa này, Phật và nhị thừa năng qua khỏi năm bờ biển sở tri. Những gì là năm? Một là quá khứ, hai là vị lai, ba là hiện tại, bốn là vô vi, năm là bất khả thuyết. Đấy là Bồ Tát Ma Ha Tát nên viên mãn sáu Ba La Mật Đa.”[[5]]
Do bi tâm rộng lớn nên tâm này chẳng khác tâm Phật. Những gì từ tâm này phát ra đều tròn đủ ý nghĩa vô thượng. Phát tâm chơn thiệt ngũ ấm là pháp khí chứa Vô Thượng Bồ Đề, công hạnh để ngũ ấm viên mãn 32 tướng, 80 tùy hình, 64 mỹ diệu âm, là duyên chúng sanh tự được.
Nên kinh nói Bồ Tát tu ‘Không’ mà chẳng bỏ bi tâm hằng đi trong ba cõi, tu ‘Vô Tướng’ mà thường cầu 32 tướng, tu ‘Vô Tác’ mà giáo hóa chúng sanh không mỏi nhàm. Bồ Tát được các thứ công đức trí tuệ vi diệu thù thắng, công hạnh đầy đủ, quả Vô Thượng Bồ Đề sẽ hiện.
“Do phát tâm nên thường được tất cả tam thế chư Phật ức niệm, sẽ được Vô Thượng Bồ Đề. Liền được tất cả tam thế chư Phật ban diệu pháp. Liền cùng tất cả tam thế chư Phật thể tánh bình đẳng. Ðã tu pháp trợ đạo của tất cả tam thế chư Phật. Trang nghiêm Phật pháp bất cộng của tất cả tam thế chư Phật. Ðược trọn vẹn trí huệ thuyết pháp của tất cả tam thế chư Phật.
Phật tử! Nếu Bồ Tát khéo dụng tâm thời được tất cả công đức thắng diệu, nơi Phật pháp được tâm vô ngại, được trụ nơi đạo của tam thế chư Phật, trụ theo chúng sanh hằng không bỏ rời, đều có thể thông đạt đúng các pháp tướng, dứt tất cả điều ác, đầy đủ tất cả điều lành, sẽ được hình sắc đệ nhứt như Phổ Hiền, đầy đủ tất cả hạnh nguyện, với tất cả pháp đều được tự tại, sẽ là đạo sư thứ hai của chúng sanh.”[[6]]
Bồ Tát tuy nơi Ba La Mật sẵn đủ, nhưng trong ba cõi hằng cứu độ chúng sanh, không ngưng tu các pháp lành, bởi vì phương tiện giáo hóa và tư lương Bồ Đề.
“Nghĩa là có chúng Bồ Tát Ma Ha Tát dù ở thành ấp xóm làng vương đô mà tâm thanh tịnh, chẳng tạp các thứ phiền não ác nghiệp và tác ý các Thanh Văn Ðộc Giác, tinh siêng tu học Bố Thí Ba La Mật Đa cho đến Bát Nhã Ba La Mật Đa. Tinh siêng an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Tinh siêng an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Tinh siêng an trụ khổ tập diệt đạo thánh đế. Tinh siêng tu học bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Tinh siêng tu học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, năm thần thông thảy công đức thế gian.
Tinh siêng tu học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tinh siêng tu học Bồ Tát thập địa. Tinh siêng tu học đà la ni môn, tam ma địa môn. Tinh siêng tu học năm nhãn, sáu thần thông. Tinh siêng tu học tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tinh siêng tu học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tinh siêng tu học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tinh siêng tu học nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, nghiêm tịnh cõi Phật thành thục hữu tình. Dù ở chốn ồn náo mà tâm vắng lặng, hằng siêng tu tập hạnh chơn viễn ly.”[[7]]
Như vậy chỉ lục độ Ba La Mật đã sẵn đủ, thì duyên gì Phật còn thuyết các pháp khác để giáo Bồ Tát? Bồ Tát có nhiều địa vị, chúng sanh có nhiều căn cơ, Bồ Tát chỗ phát tâm chưa đầy đủ nên phải học phương tiện độ mình độ người. Vì thế môn học nhất thiết trí hay còn gọi Bát Nhã Ba La Mật Đa ra đời. Đây là hành trang trên đường giáo hóa. Tóm lại Thiền và các Ba La Mật không phải hai món, cái này viên mãn cái kia viên mãn, trong một độ nhiếp năm độ. Không có một Ba La Mật riêng, nơi mỗi pháp đã tự sẵn đủ Ba La Mật chỉ vì mê tâm che chướng, một phen giác ngộ thì pháp giới chúng sanh đồng Ba La Mật.
[[1]] Trích kinh Đại Bát Nhã –HT. Thích Trí Nghiêm dịch.
[[2]] Trích kinh Đại Bát Nhã –HT. Thích Trí Nghiêm dịch.
[[3]] Trích kinh Đại Bát Nhã –HT. Thích Trí Nghiêm dịch.
[[4]] Trích kinh Hoa Nghiêm –HT. Thích Trí Tịnh dịch.
[[5]] Trích kinh Đại Bát Nhã –HT. Thích Trí Nghiêm dịch.
[[6]] Trích kinh Đại Bát Nhã –HT. Thích Trí Nghiêm dịch.
[[7]] Trích kinh Đại Bát Nhã –HT. Thích Trí Nghiêm dịch.
(còn nữa)
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






