Tâm Sự Của Lý Ngọc Thúy: Tu Ba la mật - Biến Nguy Thành An
Con nghĩ, mình đã may mắn có được một người Thầy đúng nghĩa, một Bậc Thiện Tri Thức đã khai thị cho bản thân giác ngộ, lại dạy các pháp lành để hộ trì tự tâm. Có những việc con nghĩ bản thân sẽ không làm được, nhưng kết quả thật bất khả tư nghì Thầy ạ!
Các bạn !!!
Mình vừa nhận được email của Lý Ngọc Thuý !!!
Câu chuyện Thuý tâm sự dưới đây... Chắc hẳn trong đời, không ít lần chúng ta gặp phải khi tham gia giao thông...!!!
Nhờ giác ngộ, lại được rèn luyện thường xuyên pháp lành, nên đối trước hiểm nguy, tâm HĐ chúng ta không bấn loạn, bình tĩnh xử lí, biến “nguy thành an”...!!!
Rất mong tất cả HĐ chúng ta khi tham gia giao thông, phải hết sức cẩn trọng, quan sát kĩ lưỡng, chấp hành triệt để Luật Giao Thông...nhằm tránh những sự cố đáng tiếc xảy ra cho mình, cho người...!!! Thực hiện được những việc này, đã là “pháp lành” rồi các bạn ạ !!!
15/06/2020
LÝ TỨ
Kính Thầy!
Kính HĐTM Lý Gia!
Thưa Thầy và Huynh Đệ!
Con xin kể một chuyện vừa xảy ra với con vào chiều hôm nay, khoảng 17h30p. Diễn biến câu chuyện như sau!
Hôm nay con có việc nên đã chạy xe ra đường, khi trở về, đang chạy trên đường thì bất chợt một người phụ nữ trung niên vội vã từ lề đường lao ra, khi phát hiện, người phụ nữ ấy chỉ cách đầu xe con chừng một mắt me thôi! Hu hu!
Con tự nói thầm trong bụng "Rồi, tránh không kịp rồi, thế nào cũng tông một cái rầm"!
Thế là, con dùng hết sức bình sinh đánh lái để tránh người phụ nữ. Cũng rất may là, trong lúc tránh, không có xe phía sau chạy tới, thế là không có chuyện gì xảy ra! Hên quá!
Khi hiểm nguy không còn, con vừa tiếp tục chạy xe vừa suy nghĩ. Mình đang làm gì thế? Sao mình có thể thực hiện việc né tránh tài tình như vậy? Tại sao tâm mình lại bình thản, không hãi sợ trước tình huống hiểm nguy?
Con chợt nghĩ những điều Thầy đã dạy về phép tu Ba La Mật. Thầy đã từng dạy một người tu hành trong Phật đạo khi giác ngộ chưa viên mãn, cần phải tu các pháp tu Ba La Mật, và con thực hiện lời dạy của Thầy thường xuyên.
Thầy dạy: “Tu Ba La Mật là gì? Là lập ra những tình huống giả định, lặp đi lặp lại nhiều lần tình huống đó cho đến thuần thục mới thôi. Đến khi sự việc xảy ra trong thực tế đời sống, tâm thức sẽ như pháp mà ứng xử.
Vì rằng trong cuộc sống, có những sự việc xảy đến bất ngờ, quá sức chịu đựng của ngưỡng giác ngộ, nếu không tu Ba La Mật sẽ chịu không nổi...”!!!
Từ khi nghe Thầy giáo dạy, con luôn đặt những tình huống giả định và thực hành thường xuyên, nhờ thế mà con đã bình tĩnh trước câu chuyện vừa rồi!
Nay sự việc đến với mình, con có dịp soi chiếu lại tự tâm. Và sự thật là đúng như những gì Thầy đã từng dạy. Tuy hiểm nguy đến với con, con đã không sợ hãi, lo lắng, mà vẫn bình tĩnh xử lí Thầy ạ. Nhờ thế mà: “Nguy đã biến thành an”!
Khi nghĩ đến đây, con lại nhớ đến Thầy và thật sự xúc động. Con nghĩ, mình đã may mắn có được một người Thầy đúng nghĩa, một Bậc Thiện Tri Thức đã khai thị cho bản thân giác ngộ, lại dạy các pháp lành để hộ trì tự tâm. Có những việc con nghĩ bản thân sẽ không làm được, nhưng kết quả thật bất khả tư nghì Thầy ạ!
Đến đây, con lại nhớ đến tác phẩm Tâm Pháp của Thầy! Có một đoạn Thầy đã giảng giải về phép tu Ba La Mật, con xin được ghi lại như một lời tri ân đến Thầy và Tâm Pháp!
Con kính chúc Thầy thật nhiều sức khỏe!
Con kính lạy Thầy!
Con, Lý Ngọc Thúy
TRÍCH TÂM PHÁP - PHẦN III - TÁC GIẢ LÝ TỨ
“Một người đã giác ngộ, vượt qua tự tâm kiến được tự tánh, về mặt lý thuyết, thấy được tự tánh coi như đã đi hai phần ba con đường Phật đạo. Nhưng thật ra, để cho giác ngộ viên mãn, để cho những tính chất tự nhiên của tự tánh xuất hiện trọn vẹn, người tu hành phải tu thêm sáu Ba La Mật...!!!
Sáu Ba La Mật là công cụ hữu hiệu giúp cho giác ngộ kia chóng viên mãn, nó là tường vách che chắn tốt nhất làm cho hồ Tự Tâm không còn nổi sóng thức đối trước hòn đá thấy nghe...Nếu một người thấy được tự tánh mà không tu sáu Ba La Mật thì không thể thành tựu Ba La Mật Tâm...
Tâm chưa thật sự đáo bỉ ngạn, đối trước thấy nghe, nhất định tập khí sóng mòi tàng thức sẽ làm chao đảo biển tâm...
Vì thế tu Ba La Mật là việc làm bắt buộc đối với người giác ngộ... Huệ năng ngày xưa phải sáu tháng giã gạo, đợi đến ngày gạo trắng mới có cơ hội lên thất Tổ để nghe diệu âm, mới được truyền tâm ấn!...Gạo chưa trắng, gạo chưa sạch thì chưa thể sử dụng như ý...Khi gạo đã trắng, đã sạch...bây giờ mới dùng nó vào những công việc thiết thực của hạt gạo...
Cũng gạo đó, một khi trắng rồi người ta mới dùng nó để nấu thành cơm, gạo có trắng cơm mới ngon... Cũng gạo đó lúc cần thì dùng vào việc nấu cháo, cũng gạo đó nhưng có khi xay thành bột, có khi làm thành bún, có khi ép thành bánh...Đồng một thứ gạo đã giã trắng, người khéo biết dùng thì công dụng của nó lợi ích vô cùng, biến hóa khôn lường...Ha ha ha ha!...Nếu là gạo lức, thứ gạo chưa giã trắng, nếu tham cầu sử dụng, chỉ có dùng trong hoàn cảnh hạn hẹp là nghiền thành bột cho trẻ con... ăn...Ha ha ha ha !!!
Lão Hòa Thượng lại nói:
- Lý Đệ!...Lý Đệ có cái giọng hài hước nhưng lại khai mở lòng người. Lý Đệ cho đến hài hước cũng chẳng phải hý luận, thiệt là vi diệu. Lý Tứ tiếp:
- Hòa thượng Đại Ca!...Trong con mắt của đệ, đời người chỉ là vở tuồng dài mà tác giả chính là nghiệp quả!... Vở tuồng này có bi, có hài, có tráng...Người đời như những diễn viên, cứ theo kịch bản kia mà diễn suốt cuộc đời...Nghiệp quả đã bắt những diễn viên của mình vừa mới sinh ra phải đóng vở tuồng này...Đóng ngày, đóng đêm, đóng riết nhập vai, khóc cười buồn vui theo vai diễn...Lâu rồi ngỡ rằng thân phận vai diễn là đời mình...Họ chưa từng một lần trong đời cởi chiếc áo diễn viên trả lại sân khấu, chưa từng thoát khỏi kịch bản đã trói buộc mình... Cứ thế trôi lăn theo tử sanh của vở diễn, hết đời này đến đời khác!...
Người giác ngộ, giống như kẻ từ bỏ sân khấu, làm một khán giả ngồi đấy xem tuồng... Tuy rằng đã làm khán giả, đã không còn là một diễn viên, nhưng máu nghệ sĩ hãy còn trong mình, thói quen nghề nghiệp đâu dễ dứt hẳn...Vì thế lâu lâu lại quên vai trò khán giả, lâu lâu lại phải máy động tay chân theo từng phân cảnh, theo từng điệu nhạc, theo từng lời ca...
- Hòa Thượng Đại Ca!...Tu sáu Ba La Mật là những động thái tích cực xóa đi thói quen nghề nghiệp của người nghệ sĩ một thời, nay đã từ bỏ sân khấu cuộc đời nhưng trong lòng hãy còn vương vấn...
- Tu sáu Ba La Mật chính là gọt rửa trong tâm những vết tích đã hằn sâu một thời bởi các vai diễn làm nên...
- Tu sáu Ba La Mật là rèn luyện cho thân tâm này chuyên chính trở thành một khán giả...
- Hòa Thượng Đại Ca!...Hầu hết các kinh Đại Thừa, Phật điều khuyên Bồ Tát nên tu sáu Ba La Mật...
Tu sáu Ba La Mật khi thành tựu, tâm này sẽ là Ba La Mật tâm...Người giác ngộ, nếu không tu các hạnh này, đối trước nghiệt ngã cuộc đời, đối trước bất như ý của thấy nghe...trong phút chốc bất giác, trong phút giây bất chợt...trước những sự việc vượt quá kham nhẫn; nếu tâm chưa đáo bỉ ngạn, nhất định sẽ phát sinh những tổn hại lớn làm cho hồ Tự Tâm lại nổi sống mòi...
Tu sáu Ba La Mật là, tập cho Tâm này "phản xạ có điều kiện", như người võ sĩ phản xạ tốt vì đã rèn luyện quen tay...như người lính cứu hỏa không còn bất ngờ trước tình huống có cháy... Muốn tạo những phản xạ tích cực này, người võ sĩ, người lính cứu hỏa...phải lập những "tình huống giả định", tập tành rèn luyện thường xuyên trước những tình huống đặt ra. Tập đến khi các vị này không còn bất ngờ trước sự thật xảy ra trước mắt...Nếu không tập luyện như thế, tính chuyên nghiệp sẽ không có trong con người này...
Vì nó là những tình huống giả định, nó là những kịch bản không thật, nên thuần thục rồi, tình huống giả định này không tồn tại trong tâm. Nhưng nếu có biến cố thật sự thì một "ứng xử chuyên nghiệp" sẽ hiện ra tức thì...Cái phản xạ chuyên nghiệp này, tạm coi như là thứ Ba La Mật tâm...
- Đại Ca thử nghĩ đi...Ba La Mật là gì?
Nó chính là thứ tâm không còn bất ngờ trước muôn pháp. Nó là một thứ tâm chỉ như pháp mà ứng xử...Nó không như tâm đời, không như ứng xử người đời...Điều này chuyện kinh cũng có kể...Một Bà La Môn đến chất vấn Phật:
"Tâm này là huyễn, pháp bạch cốt là huyễn...Cù Đàm dạy người pháp huyễn trong một tâm huyễn thì sao thành cái thật”?
Phật đáp lại:
"Đúng!...Tâm này là huyễn, quán bạch cốt là pháp huyễn...Pháp huyễn trong một cái tâm huyễn nhất định không thành cái thật...Nhưng cái thật ở đây là, sau khi pháp quán thành tựu, người này hết tham dục...Hết tham dục đối với người này là thật”!
Đoạn kinh trên, ít nhiều cho chúng ta thấy cái được, cái tốt lành của pháp tu Ba La Mật...Đã là những tình huống giả định, thì ở đây mới không có kẻ cho, không có người nhận, không có vật thí, không thành tựu pháp bố thí...Nhưng sau khi thành tựu pháp tu, người tu lại được nguồn tâm đáo bỉ ngạn...Tu xong thân thể da thịt da liền lại như cũ, giống như trước đây Bồ Tát tu pháp nhẫn nhục, bị Ca Lợi Vương cắt tai xẻo thịt...Ha ha ha ha!...Bồ Tát khi đó tu nhẫn nhục Ba La Mật mà Hòa Thượng Đại Ca!...
- Tu sáu Ba La Mật là tu như thế nào? Kinh điển cũng đã nói rõ cách thức, nhưng người tu hành ít khi để ý...
Vì không để ý, không ngồi xuống tu hành, những tưởng như vậy tâm này đã Ba La Mật rồi, đến khi đụng chuyện lại không kham nhẫn nổi. Nếu có cố kham nhẫn thì sự việc cũng đã tác thành, bị nghiệp quả hiện tiền tác động...Nếu để sự việc xảy ra rồi, sau đó mới đêm tâm kham nhẫn mà nhẫn, thì sao gọi là Ba La Mật tâm...!!!
Ba La Mật tâm là thứ tâm, dù sự việc có xảy ra hay không xảy ra tâm này vẫn không sai khác. Mọi thời mọi lúc mọi nơi đều như pháp mà ứng xử, đều như pháp mà an vui. Tâm được như thế mới gọi là đáo bỉ ngạn...
Ví dụ như kinh dạy: “Tu bố thí Ba La Mật là không thấy kẻ cho, không thấy người nhận, không thấy vật thí, không thành tựu quả báo bố thí...". Nay có người bảo rằng, khi ai xin gì đó tôi liền cho, cho mà không thấy những thứ nêu trên gọi là Ba La Mật...Ha ha ha ha !!!...
- Đại Ca ơi Đại Ca!...Đại Ca nói đi!...Không thấy người nhận thì cho ai đây, không thấy vật thí thì cho cái gì? Chưa nói phàm tay này trao tay kia, dù muốn hay không thì pháp bố thí đã thành tựu rồi... Có thấy hay không nghiệp quả đâu mất...Cái này là có người xin mới cho gọi là Ba La Mật, còn lúc không có người xin thì tâm thế nào đây? Cái này có xin mới cho chứ chẳng là tu...Như vậy tu Ba La Mật là tu thế nào?
Hòa Thượng Huyền Không lên tiếng:
- Lý Đệ!...Nghe Lý Đệ cắt nghĩa về tu sáu Ba La Mật, bây giờ lão nạp mới ngờ ngợ về pháp tu này...Xưa nay lão nạp cũng từng giảng nói về Ba La Mật, nhưng chưa một lần suy nghĩ cặn kẽ về cách thức tu hành... Lão nạp này cũng đinh ninh rằng: Cho mà tâm niệm không thấy người cho, không thấy kẻ nhận là tu Ba La Mật...Ha Ha Ha Ha!...Lý Đệ có cách cắt nghĩa rất cụ thể, rõ ràng minh bạch...mỗi mỗi phân minh. Lão nạp đang mong Lý Đệ giảng giải về pháp tu Ba La Mật cũng như ý nghĩa như sáu cái hang cụt đây...
Lý Tứ nói:
- Hòa Thượng Đại Ca!...Thật ra nói tu sáu Ba La Mật, nhưng phần lớn người tu hành chỉ cần tu ba pháp đầu là Bố Thí, Trì Giới, Kham Nhẫn...Tinh tấn tu ba pháp này, chỉ cần thành tựu một Ba La Mật thì sáu Ba La Mật lần lượt thành tựu... Vì sao? Vì sáu Ba La Mật nhưng chỉ một tâm này... Chỉ cần một Ba La Mật đưa tâm này đáo bỉ ngạn, thì các món kia tự thành tựu...!!!
Trong kinh cũng có nói: "Thành tựu một Ba La Mật thì sáu món thành tựu..." Kinh cũng có nói: “Ngày xưa lúc còn là Bồ Tát, trong nhiều đời đã cất công tu Ba La Mật như bố thí..."
Khi thành tựu một Ba La Mật như bố thí chẳng hạn, thì các môn Trì Giới, Kham Nhẫn...cũng thành tựu theo...Tinh tấn trong sự tu hành này là:
- Lặp đi lặp lại mãi một tình huống giả định trong tâm, tâm cứ như pháp mà ứng xử...Đến khi thành tựu, trước sự thật cho dù như thế nào...tâm không bất ngờ. Vì không bất ngờ nên tâm dừng lặng. Dừng lặng được tâm thì thiền định phát sinh...
- Khi thiền định viên mãn, có nghĩa sự việc giả định hay là thật có đến, thân tâm đều ở trong thiền...Cho đến lúc này, người tu hành mới thân chứng rằng: "Hết thảy đều do tự tâm hiện". Lo sợ trước kia hay an vui hiện thời chỉ từ tâm này mà có...
Phát hiện này chính là điều kiện để tri tuệ phát sinh. Phát sinh này là nền tảng làm cho thân tâm không còn động lay trước bất kỳ hoàn cảnh nào...Vì sao? Vì nhờ có trí tuệ nên người tu hành biết rõ mọi việc xảy ra chỉ là bóng dáng của nhận thức !!!
Vì chỉ là bóng dáng nhận thức nên vị này không y cứ. Vì không y cứ thấy nghe nên tâm không bị tác động...Luôn luôn không bị tác động bởi các tình huống như thế mới gọi là đáo bỉ ngạn.
Có được tâm đáo bỉ ngạn là nhờ vị ấy thành tựu pháp tu...Thấy biết trong hoàn cảnh và tâm như vậy, mới được gọi là Trí Tuệ Ba La Mật...
- Hòa Thượng Đại Ca ơi!...Vì thế, trong sáu cái hang, bốn cái có giường nằm và hai cái trống không...Ha ha ha ha!...Hai cái hang trống không, để chứa Thiền Định và Trí Tuệ... Nơi đây chẳng cần giường chõng như mấy cái hang kia!... Ha ha ha ha...!...
- Hòa Thượng Đại Ca ơi!...Đại Ca suy nghĩ thử xem: Vì sao bóng trăng soi xuống đáy hồ, hồ kia không lay động...Vì sao, ném viên sỏi xuống hồ, hồ kia liền nổi sóng... Ha ha ha ha!... Đại Ca đừng nói rằng: Bóng trăng và viên đá là hai vật thể khác nhau nhé!...Ha ha ha ha!...Lý Tứ lại nói tiếp:
- Hòa Thượng Đại Ca!...Kinh cũng có dạy: Có ba loại Ba La Mật là: Thế Gian Ba La Mật, Xuất Thế Gian Ba La Mật và Xuất Thế Gian Thượng Thượng Ba La Mật".
Vì sao đồng Ba La Mật mà lại có đến ba thứ bậc như vậy? Đại Ca!...Kinh nói đến ba thứ Ba La Mật là nhằm chỉ ra rằng, người tu hành tùy theo chỗ giác ngộ, tùy vào sự hiểu biết...mà khi tu Ba La Mật sẽ cho ra những thành tựu sai khác vừa nêu.
* Thế Gian Ba La Mật là: Đối với phàm phu vô văn, nghe nói đến cách thức tu Ba La Mật, liền sinh tâm vui mừng. Vui mừng vì biết đây là Thánh Pháp. Thánh Pháp này có thể giúp mình dứt khổ. Tuy rằng chưa giác ngộ, nhưng vị này quyết dùng những hiểu biết của mình, nhiệt tâm ứng dụng tu hành, ngày đêm miệt mài theo chư thánh xưa tập hạnh Ba La Mật...Đến khi thành thục, đối cảnh vị này cũng được thảnh thơi. Thảnh thơi này là do chấp trước Ba La Mật mà có chứ chẳng phải tâm thật sự thành tựu Ba La Mật...
Mặc dù nó là thứ tâm được hình bởi chấp nhất, nhưng nhờ đó, giảm thiểu phiền não... Giống như đứa trẻ xa mẹ, vì người mẹ phải đến phương xa làm ăn. Xa mẹ lâu ngày, đứa bé quen dần với hoàn cảnh thiếu vắng tình mẫu tử. Ngày tháng trôi qua, đứa bé tuy có nhớ mẹ, chưa dứt tâm ái luyến, và cũng rất mong muốn người mẹ sớm trở về... Tuy mong muốn như vậy, nhưng đứa bé vẫn thản nhiên vui đùa. Thản nhiên vui đùa vì đã quen sống một mình, không phải khổ sở nhiều vì thiếu vắng nhớ nhung...
* Xuất Thế Gian Ba La Mật là: Đối với các vị thánh, tuy rằng đã giác ngộ, có được một phần thanh tịnh, nhưng giác ngộ này chưa rốt ráo. Có những hoàn cảnh vượt qua quá sức chịu đựng, nếu không tu tập Ba La Mật, vị này có khi kham nhẫn không nổi những bứt ngặt đưa đến...
Người giác ngộ, tu Ba La Mật không giống người đời. Vị này cũng đặt ra tình huống giả định, nhưng trước tình huống như vậy, vị này không lý giải rằng tình huống này phải ứng xử như thế nào, cũng không phân tích các pháp là có hay không. Nói chung vị này không dùng sức giác để ứng phó cho hợp lý, mà chỉ an trú nơi thanh tịnh tâm, khi đối cảnh tâm vị này vắng lặng...!!!
* Xuất Thế Gian Thượng Thượng Ba La Mật là: Thấy rõ thiệt tướng, an trụ nơi Trung Đạo. Đối trước muôn cảnh muôn pháp vị này thành tựu trăm ngàn Tam Muội...Nhờ thành tựu vô lượng Tam Muội môn nên Tứ Vô Lượng Tâm xuất hiện, giống như chuyện Đức Phật và năm trăm con voi say...
- Hòa Thượng Đại Ca!...Để minh họa cho ba tầng bậc Ba La Mật, Tiểu Đệ xin nêu ra một ví dụ. Nhờ ví dụ này Đại Ca sẽ hiểu sâu hơn về điều Tiểu Đệ vừa nêu:
Ví như trên đoạn đường vắng, có một con cọp hung dữ thường xuyên xuất hiện và ăn thịt những ai đi ngang qua đó...Ta đặt ra một số tình huống như sau:
- Người bình thường, không từng tu tập Ba La Mật. Khi con cọp xuất hiện...rất nhiều ghê sợ, có thể hoảng loạn, té xỉu...Vô cùng đau khổ khi phải làm mồi cho thú dữ với tâm trạng nhiều ái luyến, mê mờ...Kinh dạy: Người này sẽ đi theo nghiệp, giống như cái cây bị đốn, sẽ ngã theo hướng mở miệng."
- Nếu là người chưa giác ngộ, nhưng có tu tập Ba La Mật. Khi thấy con cọp...người này cũng hoảng loạn, nhưng nhờ trước đó đã đặt ra tình huống tương tự. Nhờ tu hạnh bố thí, nhờ sức tập luyện thường xuyên, bước đầu người này có bất ngờ, nhưng dần dần tâm vị này trấn tĩnh trở lại. Và vị này nếu không né tránh được, thì sẽ y như pháp mà bỏ thân...Trong hoàn cảnh này, theo kinh nói, "Cho dù có xảy ra điều bất hạnh, sau đó vị này cũng được nhàn cảnh"...!!!
- Nếu là một người đã giác ngộ, có tu Ba La Mật, trong tình huống này, vị này không thấy tâm cũng không thấy cảnh, một bề thanh tịnh...!!!
- Cũng hoàn cảnh kia, nếu là một đức Phật, thì sự tình có lẽ giống như chuyện Phật gặp Ương Quật Ma La, hay đối trước năm trăm con voi say của A Xà Thế...!!!
- Hòa Thượng Đại Ca!... Ví dụ trên chỉ là ví dụ, không phải thực tế...Nhưng nhờ ví dụ này, ta có thể hiểu và cảm nhận được điều tốt lành khi thành tựu pháp tu Ba La Mật...
Đây cũng là thước đo tự tâm...Hãy ngồi xuống và tịnh tâm để đo lường chính mình, đối trước tình huống vừa nêu, ta sẽ xử lý bằng tâm nào? Nếu chưa được rốt ráo thì nhất định phải tu các Ba La Mật để được rốt ráo phải không Hòa Thượng Đại Ca!...
Lão Hòa Thượng trầm ngâm một hồi rồi nói:
Lý Đệ!...Quả nhiên như lời Lý Đệ nói, muốn thành tựu rốt ráo phải tu Ba La Mật thôi. Không Tu Ba Mật sẽ khó kham nhẫn nổi những bức ngặt vượt qua sức chịu đựng của thân này...Cảm ơn Lý Đệ!...Nhờ Lý Đệ mà lão nạp này hiểu thêm nhiều điều...
Những hiểu biết chủ quan của lão nạp trước đây về giáo pháp thiệt chỉ thuần là lý luận mà chẳng có chút cơ sở để người tu hành ứng dụng. Nói rằng thuần là lý luận, nhưng những lý luận của lão nạp đưa ra rất chung chung và mơ hồ, thiếu sức thuyết phục...Than ôi!... Những gì lão nạp dạy người bấy lâu nay, chỉ giống như "cưỡi ngựa xem hoa"...Thú thật với Lý Đệ, xưa nay đối với giáo pháp, người trước "cưỡi ngựa xem hoa" rồi truyền thừa cho người sau. Cứ như vậy mà xem, cứ như vậy mà ngắm, cứ như vậy mà tán tụng...Từ ngày ngày gặp Lý Đệ, con mắt lão nạp mới thật sự mở ra...” (Trích Tâm Pháp, Phần III - Tác giả Lý Tứ)
- LÝ NGỌC THUÝ !!!
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?


