Trả Lời Các Câu Hỏi Của Bằng Hữu Trí Đức !!!

Chuyên mục Lý Tứ Hỏi Đáp Số 49.2025 (B) với chủ đề: Trả Lời Các Câu Hỏi Của Bằng Hữu Trí Đức !!!

Tháng 10 24, 2025 - 18:12
 0  12
Trả Lời Các Câu Hỏi Của Bằng Hữu Trí Đức !!!
- ẢNH COPY TỪ INTERNET !!!

Bằng hữu Trí Đức và bạn đọc thân mến !!!

Hôm nay, Lý Tứ xin trả lời các câu hỏi của bằng hữu !!!

- Hỏi:
Câu 1: "Về cấu trúc – “Đại Bát Nhã” là một chỉnh thể do Phật thuyết hay là một “hợp tuyển” do các Tổ về sau biên tập lại? Theo Thầy, người học nên tiếp cận Kinh Đại Bát Nhã tuần tự từ đầu đến cuối như một chỉnh thể, hay có thể tiếp cận ngẫu nhiên — từ một tập, một chương, hay một phẩm bất kỳ?"

- Trả lời:

a) Theo tôi biết, kinh Đại Bát Nhã là bộ kinh được Phật thuyết trên 20 năm ở nhiều pháp hội khác nhau...Sau đó, người sau tập hợp lại thành một bộ kinh đồ sộ như ngày hôm nay...!!! Cũng theo tôi, tuy thời gian, địa điểm, bối cảnh, văn ngữ, đề tài...vv... của các thời thuyết có thêm bớt để phù hợp với "cơ và thời" của từng pháp hội nhưng, nội dung cốt lõi của mỗi thời vẫn bao hàm nghĩa lí "giúp người nghe tương ưng và thể nhập Bát nhã"...!!!

b) Như đã trình bày ở phần (A) của chuyên mục...Học Bát nhã trí không phải bê nguyên bộ kinh để đọc từng trang rồi diễn giải từ ngữ như học thế gian mà, học Bát nhã là quá trình người học học tập giáo pháp, từng bước "như pháp chuyển hoá tâm thức"...Tức là học tập giáo pháp để tâm thức "đủ điều kiện tương ưng Bát nhã trí"...!!! Khi tâm thức hành giả đã tương ưng, vị ấy đọc ngẫu nhiên một phần, hay toàn bộ bộ kinh cũng đều thông suốt...!!! Còn ngược lại, điều kiện chưa đủ thì, có tiếp cận như thế nào cũng chỉ là người đọc để "hiểu văn tự" chứ không thể tương ưng ý vị của kinh (tương tợ Bát nhã) hoặc thành tựu thật sự Bát nhã trí (Bát nhã chơn thiệt)...!!!

- Hỏi:
Câu 2: "Tính “vô tự tánh” (không tánh) trong Đại Bát Nhã và Trung Quán.
Khi bộ kinh khẳng định “chư pháp bất sanh, bất diệt”, liệu tinh thần ấy có trùng khít hoàn toàn với lập trường Trung Quán như được hệ thống hóa trong Đại Trí Độ Luận hay không?"

- Trả lời:
"Chư pháp bất sanh, bất diệt" là sự thật của Bát nhã trí...Nó không phải lập trường hay quan điểm của một học thuyết, một người hay một nhóm người...!!! Giống như "hư không bất sanh, bất diệt" là sự thật hằng hữu trong chính hư không ấy...!!!

- Hỏi:
Câu 3: "Mười tám Không.
Trong thực hành, theo Thầy, “mười tám Không” nên được quán theo trình tự tiệm tiến hay đồng thời? Thầy có thể chỉ dẫn phương cách nào để người tu học tránh rơi vào “tương tợ Không” — tức chấp vào đoạn diệt hay hư vô?"

- Trả lời:

a) Bát nhã trí rốt ráo không, giống như hư không rốt ráo không...!!! Nếu tâm trí hành giả còn một chút gì chưa không, hoặc còn thừa sót một hay 18 pháp không thì, đấy chỉ là tương tợ Bát nhã chứ chưa phải Bát nhã chơn thiệt...!!! Vì thế, 18 pháp không chính là "cảnh báo" giúp hành giả tự soi xét bản thân chứ không phải 18 pháp để quán...!!! Giống như khi ăn, chỉ cần một hạt sạn lộn vào thức ăn, người ăn lập tức nhả hạt sạn ấy ra...chứ không phải trước hoặc trong khi ăn ta quán các hạt sạn tròn méo, to nhỏ như thế nào...!!! Người biết ăn dụ cho Bát nhã trí, 18 pháp không dụ cho các hạt sạn lẫn lộn trong thức ăn...!!!

b) Giác ngộ chân thiệt là cách tốt nhất giúp người "không rơi vào lối tẻ"...Tức không rơi vào tương tợ không hay tà kiến, chấp không...vv...!!!

- Hỏi:
Câu 4: "Sáu hay Mười Ba-la-mật?
Bộ kinh 600 quyển thường nói sáu Ba-la-mật, nhưng truyền thống Đại thừa lại triển khai thành mười (thêm phương tiện, nguyện, lực, trí). Khi giảng hay tu, Thầy ưu tiên khung sáu hay mười? Việc thêm bốn hạnh sau có làm lệch tâm trục “Trí tuệ – Bát Nhã” của toàn bộ kinh hay không?"

- Trả lời:
Quá trình thể nhập Bát nhã trí, thông thường có hai giai đoạn đó là: Giai đoạn thể nhập trí và thể nhập huệ (hay tuệ)...Trí như đèn, tuệ như cường độ ánh sáng...!!! Lục Ba la mật giúp người viên mãn trí, bốn Ba la mật sau giúp người viên mãn tuệ...!!! Khi nào giúp người viên mãn trí thì dạy sáu Ba la mật, lúc nào giúp người viên mãn tuệ thì dạy bốn Ba la mật...!!! Mười Ba la mật là quy trình bắt buộc trong quá trình dạy và học Bát nhã, chứ nó không phải là thứ được thêm hay bớt theo cách tuỳ hứng của người đời...!!!

- Hỏi:
Câu 5: "Quan hệ giữa Đại Bát Nhã và các “tiểu bản” (Kim Cang, Tâm Kinh).
Nhiều đạo tràng xem Kim Cang và Tâm Kinh là tinh yếu của bộ 600 quyển. Theo Thầy, nếu đọc ngược lại — dùng đại bản để giải minh tiểu bản — có thích hợp chăng? Xin Thầy nêu một vài đoạn then chốt trong đại bản mà nếu thiếu, người học dễ hiểu sai ý Tâm Kinh hay Kim Cang."

- Trả lời:

a) Kinh Kim Cang giúp người thành tựu Kim cang tâm, Kim cang trí và Kim cang tạng...!!! Tâm kinh giúp người thấy rõ bản chất tự không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức...!!! Hai kinh này chỉ có chức năng giúp hành giả thành tựu một số điều căn bản để có thể thể nhập Bát nhã trí, chứ nó không phải tinh yếu của Bát nhã...!!! Ta có thể hiểu, Kinh Kim Cang như cấu trúc của một cái trống...Trống phải rỗng ruột, ruột càng rỗng tiếng càng vang...Tâm kinh giống như vật liệu làm trống...Vật liệu có chuẩn, không tạp...vv...thì cái trống mới đạt yêu cầu...!!! Hai thứ này chỉ là cơ bản, chứ chưa phải tất cả những gì một cái trống phải có...!!!

b) Không được học tập đến nơi đến chốn, kiến thức không chuẩn, dùng thế trí hay hữu lậu trí để diễn giải ngữ ngôn vô lậu và xuất thế...vv...nhất định đọc kinh nào cũng hiểu sai không riêng gì Kim Cang hay Bát Nhã...!!!

- Hỏi:
Câu 6: "Bồ-tát đạo trong Đại Bát Nhã: Phương tiện và Hạnh nguyện.
Trong kinh, “Bát Nhã” luôn đi đôi với “Đại bi” và “Phương tiện”. Thầy đánh giá thế nào về nguy cơ thiên lệch “Trí” mà kém “Bi” nơi người học hiện nay? Và Thầy có cách thức nào giúp học trò đã thành tựu phần tự độ nhưng chưa khởi tâm độ tha?"

- Trả lời:

a) Trí và bi của Phật đạo là thể và dụng của nhau như mặt trời và ánh sáng...Có mặt trời lập tức có ánh sáng...!!! Trong đời tôi chưa từng thấy vị nào "có trí mà kém bi", trừ người lầm tưởng hiểu biết ba thừa là Bát nhã trí hoặc mấy cụ...giả...trí...!!!

b) Riêng học trò của tôi, tất cả đều ý thức rõ việc học giáo pháp để làm gì và họ cần làm gì để xứng đáng với giáo pháp đã học...Cho nên, không thấy một ai đã hoàn thành phần tự độ mà chẳng khởi tâm độ tha...Thậm chí, họ còn rất hăng say giúp người trong khi bản thân chưa viên mãn tự độ, trên tinh thần biết bao nhiêu giúp bấy nhiêu...!!!

- Hỏi:
Câu 7: "Vấn đề ngôn ngữ dịch thuật.
Bản Huyền Trang nổi tiếng nghiêm cẩn về chữ nghĩa, bản Việt của HT. Trí Nghiêm cũng cố giữ trung thành với Hán văn. Khi hướng dẫn học trò, Thầy khuyên nên giữ nguyên thuật ngữ Hán (như “bất kiến”, “bất đắc”, “vô sanh pháp nhẫn”) hay nên Việt hóa để người mới dễ tiếp cận hơn? Xin Thầy chỉ rõ ưu và nhược của mỗi hướng."

- Trả lời:

a) Trong dạy và học, đa phần tôi vẫn giữ nguyên các thuật ngữ Hán Việt...Vì, bản thân chưa tìm ra từ ngữ thuần Việt để thay thế...Tuy vậy, khi gặp các từ ngữ đó, tôi chịu khó giải thích cho người học ý nghĩa các từ ngữ ấy là gì, nó thuộc cảnh giới nào của đạo pháp cũng như cách thành tựu cảnh giới đó...vv...!!! Do đó, đối với Lý Gia, từ ngữ không còn là thứ cản ngại...!!!

b) Theo tôi, đối với đạo pháp, từ ngữ thuần Việt hay Hán Việt đều có lợi thế riêng...Vấn đề đặt ra ở đây là, làm thế nào để ta truyền tải đầy đủ ý nghĩa, công dụng, phạm vi, cách sử dụng...vv...các từ ngữ đó một cách tốt nhất nhằm giúp người học nhân đó mà giác ngộ, mà thấu suốt giáo pháp...!!!

- Hỏi:
"Câu 8: “Vô sanh pháp nhẫn”.
Theo kinh, đắc được nhẫn này là bước ngoặt trong hành trình Bồ-tát. Trên phương diện thực hành, Thầy định nghĩa “dấu hiệu nhận biết” sự thành tựu ấy như thế nào, để người học không lầm với trạng thái an tĩnh tâm lý tạm thời?"

- Trả lời:
Bồ tát lấy "rốt ráo không" làm vô sanh...Lấy "không nhẫn" làm pháp nhẫn...!!! Người thành tựu cảnh giới này luôn an lạc, tự tại, bất động, giải thoát...vv...trước mọi cảnh duyên...!!!

- Hỏi:
Câu 9: "Đọc Đại Bát Nhã trong bối cảnh cư sĩ hiện đại.
Bộ kinh đồ sộ (khoảng 4,5 triệu chữ Hán, bản in Tân Tu gồm ba quyển lớn). Nếu Thầy thiết kế một lộ trình giúp học trò thâm nhập Đại Bát Nhã, Thầy dự kiến thời lượng bao lâu? Và Thầy sẽ chọn những phẩm nào làm “xương sống”? Tiêu chí lựa chọn ấy là gì?"

- Trả lời:
Xem phần Đối Với Lý Gia ở chuyên mục trước (49/2025A)...!!!

- Hỏi:
Câu 10: "Tính lịch sử của văn bản.
Nhiều tài liệu cho biết Ngài Huyền Trang dịch bộ kinh này tại chùa Đại Từ Ân, hoàn thành năm Long Sóc thứ ba (khoảng năm 664). Khi giảng đạo, Thầy có xem “bối cảnh dịch thuật” là phần thiết yếu để hiểu ý hướng biên tập của bản Hán không? Nếu có, đâu là bối cảnh quan trọng nhất cần giới thiệu cho người học trước khi đi vào nội dung?"

- Trả lời:
Tôi chỉ chú trọng đến việc giúp học trò hết khổ, giác ngộ rồi thông đạt giáo pháp...!!! Những vấn đề bằng hữu nêu tôi không quan tâm nhiều...!!! Bởi lẽ, biết những việc đó hay không, chẳng liên hệ gì đến giác ngộ hay hết khổ đau...!!! Giống người bị tên độc, điều trị để khỏi mất mạng quan trọng hơn việc cất công tìm hiểu các việc như: Ai làm ra cung tên đó...??? Cung tên đó làm thời điểm nào...??? Vì sao họ làm...vv...???

- Hỏi:
Câu 11: "Đại Bát Nhã và lộ trình “Ngộ – Hành – Chứng”.
Nhiều hành giả cho rằng bộ kinh khó nắm bắt vì ngôn ngữ phủ định triệt để. Thầy sẽ dạy học trò của mình thế nào để lĩnh hội và chứng thực được ""Pháp môn bất nhị"" của Bát Nhã chứ không chỉ là lý thuyết triết học?"

- Trả lời:

a) Bát nhã như hư không...!!! Hư không chẳng đề cao hay phủ định một việc gì hay pháp nào bởi "Bát nhã không tánh"...!!!

b) Tôi ứng dụng triệt để lời dạy của Phật: "Trong ngữ có nghĩa" hoặc "ngữ ấy tức nghĩa ấy" để giúp học trò lãnh hội giáo pháp...Cho nên, việc họ chứng thực "Bất nhị pháp môn" là điều tự nhiên trong quá trình học tập và giác ngộ của Huynh Đệ (HĐ) Lý Gia...như người ta "ăn thì no" chứ chẳng liên quan gì đến lí thuyết hay triết lí...của...cái...sự...ăn...!!!

- Hỏi:
Câu 12: "Một câu hỏi mở về phương pháp giảng dạy.
Nếu Thầy được mời giảng một khóa “Đại Bát Nhã” dành cho người đã học Kim Cang và Tâm Kinh, bài học đầu tiên Thầy sẽ phá chấp nào trước — “Không = rỗng không” hay “Bát Nhã = tri thức biện luận”? Và vì sao? "

- Trả lời:

a) Trên đời chẳng ai dư hơi đi mời một người giảng nói chẳng giống ai đến giảng cho mình hoặc cho bạn bè của mình (nếu không muốn nghe xong tức đến lộn ruột)...!!! Và với tôi, một Lý Gia đã quá đủ cho mình rao giảng đến hết hơi rồi...Nên chẳng có tâm ý hay mong cầu đi đâu nữa...!!!

b) Niệm chấp, pháp chấp, người chấp...vv...không thật...Vì, những thứ ấy chỉ là "hiệu ứng của mê"...!!! Mà đã là "hiệu ứng" thì làm sao mà phá đây ?????? Giống như thấy đèn có quầng là do mắt bệnh...Muốn hết thấy đèn có quầng phải chữa mắt...!!! Cho nên, muốn người hết chấp, phải giúp người giác ngộ, giác ngộ tất sẽ hết mê, hết mê tất hết chấp...!!! Thành ra, không ai đi phá quầng đèn trong khi mắt bệnh nhân đang nhặm...Mà, cái người trí cần làm là: Chỉ nên giúp người chữa cho con mắt hết bệnh...Đây mới được coi là biện pháp đúng đắn nhất...!!!

Hi vọng, những trả lời vừa rồi, có thể giúp bằng hữu Trí Đức và bạn đọc nhận ra điều gì đó về Bát nhã và cách học tập trí này...!!! Chúc bằng hữu Trí Đức và bạn đọc an vui, tinh tấn, sớm thành tựu điều cần thành tựu trong đạo pháp...!!!

Rất mong nhận được những câu hỏi lí thú và bổ ích từ mọi người...!!!

- Các bạn có thể gửi câu hỏi theo đường link sau: https://forms.gle/HooJiZeXLBNokpUx8

- Hoặc đặt câu hỏi trực tiếp từ Website LyTu.Vn

24/10/2025
LÝ TỨ

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

like

dislike

love

funny

angry

sad

wow