Thiền Đốn Ngộ
‘Thiền đốn ngộ’, tên này do người sau đặt ra cho những vị kiến tánh. Ở đây chữ thiền có gì đó chưa ổn, bởi đốn ngộ không có nghĩa thiền vì kiến tánh không do tu mà được. Được thì ngay đó liền được không đợi sát na, nếu có sát na thì chẳng được gọi là đốn.

Trong Phật sử thiền đốn ngộ không được đề cập nhiều, chỉ xuất hiện trong các tài liệu thiền và hàm ý trong các bài kệ truyền pháp của Tổ có y bát. Điều đặc biệt của thiền đốn ngộ, thiền ngữ không dài, không chi tiết, không phân tích như thiền tiệm tu.
Tuy vậy những bài kệ và luận này ngắn nhưng nghĩa lý thâm sâu, đầy đủ những chỉ thú cần thiết như:
Khế nghĩa kinh, không kẹt tứ cú, không bị bốn tướng, không có bốn bịnh, nêu lên được trung đạo đệ nhất tối liễu nghĩa, nói lên chỗ tự thông, quan trọng là không bao giờ huỷ phạm giới luật.
Loại thiền này rất ít người đạt được, chỉ có các Đại Bồ Tát như Văn Thù, hay đệ tử hiện đời của Phật là Ca Diếp và sau đó là các Tổ có y bát mang tính truyền thừa. Theo thiền sử thì mỗi đời Tổ chỉ có một đệ tử đạt được cho đến thời Tổ Huệ Năng không còn truyền nữa.
Một vị đã kiến Phật tánh theo kinh và tài liệu thiền để lại, ngoài các chỉ thú trên còn có hai thứ thông, đó là ‘thuyết thông’ và ‘tông (tâm) thông’.
- Thuyết thông là có thể thuyết tất cả kinh điển
Phật giáo vô ngại nên kinh nói: “Như chư Phật xưa thuyết các pháp.” Vị này có thể chiết phục người hay giáo dạy người vì đầy đủ tứ vô ngại biện gồm: Từ vô ngại, nghĩa vô ngại, pháp vô ngại, và biện tài vô ngại; từ một pháp có thể biện luận tột nghĩa ba thừa, từ một nghĩa thấu suốt vô lượng nghĩa. Đặc biệt người được thiền này, khi giác ngộ tự thấu suốt không phải học mới biết.
- Tông thông là thấu suốt các địa, một địa nhiếp các địa, có thể thị hiện Như Lai địa, hàng phục tất cả, biết rõ nguồn tâm của chúng sanh có thể khiến người giác ngộ tu hành đến Vô Thượng Bồ Đề quyết không sai. Lục Tổ Huệ Năng là một ví dụ, tuy dốt ngữ nhưng thông nghĩa, đây là những đặc tính nổi bật của thiền đốn ngộ.
Đoạn kinh dưới đây Phật mô tả chỗ tự thông (hai thứ thông) của Bồ Tát nhất thừa thấy Phật tánh:
“Đến tột tự tánh là tông, viên dung chẳng hai là thông. Tùy cơ hiển bày chẳng kẹt quyền giáo gọi là thuyết thông. Bồ Tát được hai pháp này tự thành và làm thành cho người, không rơi vào cảnh giới ma ngoại giác tưởng, đây là phải học.
Đại Huệ! Tông thông là, duyên tướng tự đắc thắng tiến, xa lìa ngôn thuyết văn tự vọng tưởng, đến vô lậu giới tự giác địa tự tướng, xa lìa tất cả hư vọng giác tưởng, hàng phục tất cả ngoại đạo chúng ma, duyên tự giác thú, hào quang phát sáng, ấy gọi là tướng tông thông.
Duyên tướng tự đắc thắng tiến là, tự là tự tánh, tự được tánh kia tối tôn tối thượng, tức là đã chứng căn bản trí. Duyên căn bản trí này xa lìa ngôn thuyết vọng tưởng, cứu cánh vô lậu giác địa, nên nói “Phật tánh là nhân, Niết Bàn là quả.” Tự giác tông thông này là chỗ sở hành thánh lạc, trí tuệ minh đạt hàng phục tất cả, tất cả không thể hàng phục được.
Thế nào là tướng thuyết thông? Nghĩa là nói chín bộ giáo pháp, lìa tướng khác, chẳng khác, có, không v.v..., do phương tiện khéo léo tùy thuận chúng sanh, như đáng nói pháp khiến được độ thoát, ấy gọi là tướng thuyết thông. Đại Huệ! Ông và các Bồ Tát khác nên phải tu học.”[[1]]
Cũng nói về hai thứ thông kinh Lăng Già nói: “Ta nói hai thứ thông, thuyết thông và tông thông, thuyết dạy kẻ đồng mông, tông (tâm) vì người tu hành.” Tổ Huệ Năng nói: “Thuyết thông và tông (tâm) thông, như nhật treo hư không, duy truyền pháp kiến tánh, xuống thế phá tà tông.”
Thiền này không tự tu để giải quyết ba cõi, chỉ lấy công hạnh giáo hóa chúng sanh tạm làm chỗ tu hành, giống như chuyện Tổ Đạt Ma đối đáp với vua Lương Võ Đế. Vua hỏi ai đứng trước mặt trẫm, Tổ đáp: “Quách nhiên vô Thánh.” Câu nói này hàm ý chẳng phải phàm chẳng phải thánh, kinh gọi là siêu nhân loại, đây là thiền ngữ tiêu biểu của thiền đốn ngộ.
Thiền này mới nhìn chỗ giác ngộ gần như rất rộng và không khuôn phép, vượt ngoài quy luật của giáo nghĩa “giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự” nhưng thật ra trong đó lại có quy luật riêng của nó về mặt công đức và trí tuệ.
Người được thiền này gọi là pháp khí đại thừa, giống như một cái bình tinh sạch để đựng pháp. Tất nhiên cái bình này vóc dáng, chất liệu, độ nung ra khỏi công thức để làm một cái bình thông thường của thế gian, mà thế gian thì chưa một lần được thấy cái bình này. Chưa nói đến công thức hay quy trình sản xuất, thành ra gọi là không khuôn phép hay vượt ngoài giáo nghĩa cũng không sai.
Đây là tác phẩm được làm ra bởi những nghệ nhân thiện xảo bậc nhất cõi Diêm Phù là Phật, Đại Bồ Tát, Tổ y bát. Chính sự cao tột này, nên không thể dùng ngôn ngữ thế gian mô tả, tạm gọi bất lập văn tự hay giáo ngoại biệt truyền.
Tóm lại nếu suy gẫm cho kỹ, thì sẽ phát hiện ra nhất thừa thấy Phật tánh có một quy chuẩn khắt khe hơn bất kỳ một thứ quy chuẩn nào trong các loại thiền. Sự sàng lọc khắt khe nầy, ngoài số lượng trong nghìn muôn lấy một, như một quy luật nghiệt ngã, mà nó đòi hỏi ứng viên được lựa chọn, ngoài trí tuệ siêu xuất, còn phải có tố chất gần như tố chất của một Đẳng Chánh Giác với đầy đủ “từ, bi, hỷ, xả” và nghiêm khắc với bản thân kể cả khi không có người giám sát. “Mười lăm năm ở chung với đám thợ săn chỉ ăn rau bên thịt.” Thái độ “ăn như thuốc chữa bệnh đói chứ không nhằm trang sức” được tuân thủ nghiêm ngặt. Thái độ ứng xử của Huệ Năng đối với Huệ Minh khi rượt đuổi cướp y bát, và khi Huệ Minh cầu pháp. Thái độ của Tổ Ưu Ba Cúc Đa đảnh lễ Thế Tôn, dù biết đây là Phật giả do đệ tử biến hóa. Những biểu hiện trên chứng minh tính ưu việt của pháp khí đại thừa. Do vậy sự tuyển chọn ngàn muôn lấy một cũng là lẽ đương nhiên.
- ‘Thiền đốn ngộ’, tên này do người sau đặt ra cho những vị kiến tánh. Ở đây chữ thiền có gì đó chưa ổn, bởi đốn ngộ không có nghĩa thiền vì kiến tánh không do tu mà được. Được thì ngay đó liền được không đợi sát na, nếu có sát na thì chẳng được gọi là đốn.
Cũng như dây và rắn, trước dây chưa thành rắn, thì nay rắn cũng không trở lại dây. Còn nếu nói kiến tánh toàn thể là thiền, thì cụm từ ‘thiền đốn ngộ’ thừa một chữ như nói ‘sông Cửu Long giang’.
Ngũ Tổ bảo chúng: “Thấy thì thấy liền, không đợi suy nghĩ,” có nghĩa kiến tánh phi sát na. Kiến tánh đòi hỏi độ chính xác cực cao nên văn tự nói về cảnh giới này cũng cực kỳ chuẩn xác, không thiếu cũng không thể thừa, vì thiếu là nghĩa chưa đến, thừa là nghĩa phan duyên. Cho nên trong đoạn nói về thiền này tạm dùng từ kiến tánh để tránh ngộ nhận thiền đốn ngộ do tu thiền mà được và ngộ nhận kiến tánh là thấy Phật tánh.
Kinh Lăng Già Phật mô tả điều này như sau: “Đại Huệ! Như gương sáng đốn soi các sắc tượng,” có nghĩa đã đốn thì ngay đó là đốn, như gương sáng hiện hình không trải qua thời gian dù một sát na.
- Kiến tánh có phải thấy Phật tánh không?
- Kiến tánh và thấy Phật tánh là hai cấp độ tu hành cách nhau rất lớn trong Phật giáo. Thông thường khi nói kiến tánh người nghe sẽ hiểu là thấy Phật tánh, hiểu như vậy không sai nhưng chưa chính xác.
- Kiến tánh là thấy được tánh thanh tịnh của vạn pháp, chứng căn bản trí. Thấy này tương đương với nhãn lực của Bồ Tát chứng pháp không hay còn gọi là pháp vô ngã.
Cơ bản sạch bốn tướng là cái thấy tương đương một Độc Giác Phật. Tức đã viên mãn phần giác, viên mãn giác gọi là Phật. Vì thế Độc Giác hay Bích Chi cũng được gọi là Phật. Muốn được danh hiệu Thế Tôn phải thấy Phật tánh để đủ phương tiện giáo hóa ba cõi vì thế danh xưng Thế Tôn do ba cõi ban tặng để nói lên công đức giáo dạy.
Cho nên cụm từ “kiến tánh thành Phật” hàm ý chỉ cái thấy đã hoàn toàn giác phần căn bản trí.
- Thành Phật ở đây không có nghĩa thành Đẳng Chánh Giác đủ mười danh hiệu. Muốn đủ mười danh hiệu phải kiến Phật tánh, tức viên mãn nhất thiết chủng trí.
Kinh Đại Niết Bàn Phật nói: “Trước khi thọ thực thân Bồ Tát là nhục thân, sau khi thọ thực Bồ Tát nhập Kim Cang tam muội tiêu hóa thức ăn biến nhục thân thành Kim Cang thân, thấy Phật tánh chứng Vô Thượng Bồ Đề.”
- Có thể hiểu ba thừa sau khi chứng nhân không được Niết Bàn thanh tịnh tâm, hết vô minh gọi là minh tâm. Sau đó phải chứng pháp không để làm sạch nguồn tâm, thấy tánh pháp giới thanh tịnh gọi là kiến tánh. Vì thế cụm từ “minh tâm kiến tánh ra đời.”
- Sau khi tâm hết vô minh và hoàn toàn trong sạch, vị này mới học nhất thiết trí hay còn gọi là Bát Nhã trí như Thiện Tài Đồng Tử hay Tát Đà Ba Luân. Viên mãn nhất thiết trí vào đạo tướng trí, vị này mới thay đổi nhãn lực một lần nữa thấy hết thảy chúng sanh đồng có Phật tánh gọi là kiến Phật tánh.
Như thế có thể hiểu người tu hành có ba giai đoạn:
- Dùng phương tiện ba thừa để gọt sạch vô minh, thân chứng Niết Bàn gọi là minh tâm.
- Giác pháp vô ngã để thấy tự tánh thanh tịnh của vạn pháp gọi là kiến tánh.
- Viên mãn nhất thiết trí thấy chúng sanh có Phật tánh, biết rõ cách thức giáo hóa đẽo gọt một chúng sanh thành Phật.
Như người thợ điêu khắc thấy thánh tượng trong gốc cây và thiện xảo đẽo gốc cây thành tượng gọi là thấy Phật tánh.
- Bồ Tát thập trụ có thấy Phật tánh nhưng rất lờ mờ, thấy Phật tánh rõ ràng phải là Bồ Tát hàng cửu địa trở lên.
- Từ sơ địa đến bát địa thấy Phật tánh nhưng chưa viên mãn. Vì thế kinh gọi Bồ Tát cửu địa là “siêu nhân loại” ám chỉ cái thấy khác thường.
- Sau khi thấy Phật tánh viên mãn mới nổi mây pháp, vì thế thập địa gọi là Pháp Vân địa. Bồ Tát Thường Bất Khinh trong Diệu Pháp Liên Hoa khi thấy Phật tánh bèn la lớn: “Tôi không dám khinh các ông, các ông sẽ là Phật.” Thấy Phật tánh là như vậy.
- Ba lần thay đổi nhãn lực là ba lần chuyển nhãn lực từ pháp nhãn lên huệ nhãn rồi Phật nhãn. Nếu là Thanh Văn thì danh xưng ba nhãn là huệ nhãn, pháp nhãn, và Phật nhãn.
Sở dĩ có sự xáo trộn này vì Thanh Văn ban đầu dùng huệ trí ‘chứng giải thoát’ nên huệ nhãn có trước. Bồ Tát khai pháp nhãn thanh tịnh ‘chứng Niết Bàn’ nên pháp nhãn có trước. Và hai thừa này đồng tu hai thứ nhãn mà mình chưa có.
Ba lần thay đổi nhãn lực này tương ưng với ba lần chuyển pháp luân của Phật.
- Lần chuyển thứ nhất tại vườn Lộc Uyển khiến chúng sanh biết đạo giải thoát.
- Lần thứ hai khai Phật tri kiến trong Diệu Pháp Liên Hoa để làm sạch nguồn tâm học tri kiến Phật.
- Lần thứ ba tuyên nói “hết thảy chúng sanh đồng có Phật tánh” để khiến Bồ Tát viên mãn Phật tánh.
Có thể hiểu kiến tánh là nhân, kiến Phật tánh là quả, vì chưa kiến tánh thì không thể thấy Phật tánh.
Đạo Phật còn có tên đạo giác ngộ, minh tâm kiến tánh để viên mãn phần giác, thấy Phật tánh là viên mãn phần ngộ. Vì thế Phật giáo có cụm từ “giác tánh viên mãn” và “thấy Phật tánh” không ai nói “giác Phật tánh” bao giờ.
- Chữ ngộ có nghĩa gặp được, là thấy chứ không phải nghe nói mà biết, nghe nói mà biết gọi là giác. Thành ra hàng Bồ Tát thập địa khi thấy rồi tự được Phật pháp. Kinh Hoa Nghiêm Phật nói hàng này không do người dạy, gọi là tự nhiên trí hay vô sư trí.
Tóm lại ‘thiền đốn ngộ’ là loại thiền cực cao trong Phật giáo vượt ngoài ngôn giáo, cho nên thiền này lấy “bất lập văn tự” làm chỉ thú.
- Bất lập văn tự là loại thánh ngôn lượng dùng để “dĩ tâm truyền tâm” nên còn gọi là “giáo ngoại biệt truyền.”
Trong bài viết này đề cập đến loại thiền này chỉ để tham khảo hơn là đào sâu ý nghĩa. Thật ra người tu hành đốn ngộ hay tiệm tu, hiểu kiến tánh là thấy Phật tánh hay khác không quan trọng.
Bởi lẽ trước khi Phật tuyên nói hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, cũng đã có vô số đệ tử chứng thánh, đâu nhất thiết đợi phải đốn ngộ hay kiến tánh mới tu được.
Vì thế đặt nặng những vấn đề như đốn ngộ, tiệm tu, hay kiến tánh sẽ không có lợi cho công việc làm sạch phiền não.
- Hãy coi lại phiền não còn hay không mới quan trọng, còn vô minh và phiền não mà bàn đến chuyện kiến tánh thì hình như chưa phải lúc.
[[1]] Trích kinh Lăng Già –HT. Thích Thanh Từ dịch.
(còn nữa)
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






