Bốn Đế Và Ba Thừa
Trong khi đó Phật nói rõ: “Như một đĩa mật này các Tỳ Kheo, vị ngọt của mật ở mép đĩa không khác vị ngọt của mật ở giữa.” ... Kinh điển của ba thừa đều từ bốn đế xuất sinh, cho nên ba thừa phải y bốn đế giác ngộ. Chỉ khi nào giác ngộ đúng như bốn đế thì mới là giác ngộ của Phật giáo, và chỉ giác ngộ này mới có hy vọng thấy được Phật thừa, “tam thừa cộng quả.”

Nói đến Phật giáo là nói đến bốn đế. Bốn đế như một dàn bài làm nên giáo lý Phật giáo, nếu không có bốn đế thì không có Phật giáo. Phật giáo không y vào bốn đế thì không y vào đâu làm cơ sở để thuyết minh vạn pháp, và không y vào đâu để hình thành quy trình tịch diệt nguồn tâm.
Hết thảy kinh điển Phật đã thuyết không ngoài bốn đế. Có khác chăng là tùy chỗ dụng mà ngôn ngữ có khác, cách hiển bày có khác, nhưng nghĩa lý thì nhất định không khác. Cho nên mới có bốn tục đế, bốn thánh đế, bốn chơn đế và chơn mà không đế (chư Phật).
Do tầm mức quan trọng như vậy nên sức rộng và chiều sâu của bốn đế là rộng sâu của Phật giáo. Để thấu suốt tột cùng bốn đế chỉ có Phật mới hiểu hết ý nghĩa, do thấu suốt bốn đế nên Phật thuyết kinh không cùng và ba thời đều thiện. “Thuyết đạo khổ vô úy”
Phật dạy: “Trong các chỗ thuyết pháp, có nói ra điều gì không ngoài bốn đế,” hoặc “chỗ chư Phật chứng là chứng bốn đế.”
Những lần ra khỏi thành, thái tử nhìn thấy lão bệnh tử (khổ đế), từ đấy sinh ra ưu tư. Chẳng lẽ ngoài thành Ca Tỳ La Vệ chỉ có mấy điều này, còn có bao nhiêu thứ để thấy vì sao không thấy mà chỉ chú trọng đến mấy điều, và vì sao không ưu tư món khác mà chỉ ưu tư có thế? Tại sao những món này mọi người đều thấy mà không ưu tư? Khi đặt thành vấn đề để suy gẫm, mới thấy sự khác thường của Phật giáo và bốn đế.
Nếu xét tiền đề trên ta thấy bốn đế là chủng tử đầu tiên để sản sanh ra một Đẳng Chánh Giác (vì ưu tư, lão, bệnh, tử nên xuất gia thành Phật, từ thành Phật chỉ cho chúng sanh quả khổ và con đường dứt khổ).
Chỉ có tư chất một Đẳng Chánh Giác mới có những ưu tư lạ lẫm như vậy. Vì sao những kẻ khác không ưu tư giống thái tử? Đơn giản chỉ vì chưa tích tụ đủ công đức của một Đẳng Chánh Giác nên thấy khác (vui buồn theo nghiệp).
Hễ khi nào tích tụ đủ công đức của một Đẳng Chánh Giác thì thấy biết và ưu tư đều như vậy.
“Cách đây tám muôn kiếp cũng tại thành Ca Tỳ La Vệ, cũng cha là vua Tịnh Phạn, mẹ là hoàng hậu Ma Gia sinh con một thái tử tên Tất Đạt Đa, cũng lớn lên ra ngoài thành… Cũng xuất gia… Cũng thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Lại cách đây bảy muôn… Lại cách đây… Cũng cha là vua Tịnh Phạn, mẹ là hoàng hậu Ma Gia sinh con một là Tất Đạt Đa…. Ta đây cũng… Cho đến vô lượng Thích Ca đều như vậy.”[[1]]
Mới biết Phật giáo là thường, Tam Bảo thường trụ, bốn đế cũng là pháp thường trụ.
Bốn đế là chủng tử căn bản để sanh một Đẳng Chánh Giác thì Thanh Văn, Duyên Giác, Bích Chi, Bồ Tát do chủng tử nào sanh ra, chẳng lẽ ba thừa lại do chủng tử khác chủng tử Phật sinh ra!?
Trong khi đó Phật nói rõ: “Như một đĩa mật này các Tỳ Kheo, vị ngọt của mật ở mép đĩa không khác vị ngọt của mật ở giữa.” Đây chính là lời minh định ba thừa và những gì họ đạt được giống như Phật, chỉ khác ở cạn sâu. Vì chỗ có được giống nhau nên chủng tử phát sinh nhất định cũng giống nhau. Vậy kinh điển của ba thừa đều từ bốn đế xuất sinh, cho nên ba thừa phải y bốn đế giác ngộ. Chỉ khi nào giác ngộ đúng như bốn đế thì mới là giác ngộ của Phật giáo, và chỉ giác ngộ này mới có hy vọng thấy được Phật thừa, “tam thừa cộng quả.”
“Tam thừa đồng một tánh tri giác mà chẳng đồng tri giác. Bởi tri giác sai biệt nên chỗ chứng cũng sai biệt. Như Lai là như tánh kia mà giác nên không có giác khác, như tánh kia mà biết nên không có biết khác. Như tánh kia mà giác thì không có bất giác. Không có giác khác thì không vọng giác. Không bất giác không vọng giác, ấy gọi là chân như tự tánh thanh tịnh không che đậy.” [[2]]
Về mặt nào đó ta có thể thấy bốn đế gần giống như một dàn bài để làm một bài văn, gồm có mở đầu, thân bài, kết luận.
Khi làm văn, cùng một đề tài nhưng mỗi người lại có cảm nhận khác nhau, nên cách mô tả cũng khác nhau. Người thầy giáo dạy cách thực hiện bài văn theo cảm nhận của học trò mình. Như đồng mặt trăng, học trò cảm nhận giống như cái mâm, thì thầy giáo hướng cảm xúc học trò về cách cảm nhận như cái mâm. Nếu cảm nhận như mặt người con gái, thì hướng cảm xúc về cách cảm nhận như mặt người con gái. Từ những cảm xúc này phát triển thành một bài văn hoàn hảo, miễn sao bài văn đúng với dàn bài (đủ ba phần mở đầu, thân bài, kết luận).
Cái khác ở đây là bài văn kết luận đúng một áng văn. Còn bốn đế hướng cảm nhận của chúng sinh về các vấn đề của khổ đau và sự đoạn tận. Cho chúng sinh thấy được nguyên nhân phát sinh vạn pháp, và những nguy hại tiềm tàng của pháp đã thấy.
Thuyết minh chân tướng vạn pháp (không giống như thấy cái này hoặc như thấy cái kia) và đâu là thiệt tướng. Sự thuyết minh hoàn hảo này, đưa chúng sinh đang mê lầm đến hết mê lầm, hoàn toàn hết mê lầm gọi là thấy thiệt tướng.
Do đó học dàn bài để biết cách làm văn, không phải học dàn bài để mô tả dàn bài. Học bốn đế để giác ngộ, và học dàn bài chỉ học một lần khi chập chững học làm văn. Đến khi mô tả sự việc thì chẳng ai mô tả đây là mở đầu, kia thân bài, còn đây là kết luận.
Học bốn đế để biết cách suy tư một pháp đâu là khổ, đâu là tập, đâu là diệt, đâu là đạo, và lấy gì làm đế để giác ngộ. Không phải học bốn đế để thuộc lòng cái gì là khổ hay cái gì là tập.
Phật giáo chân chánh không coi trọng lối trả bài từ chương này, mà cần người nghe tìm thấy chân lý từ nơi dàn bài bốn đế.
Ba thừa như ba người học trò nhìn thấy một sự việc, Phật tùy vào cảm nhận của họ để dạy cách giải quyết vấn đề. Kinh gọi tùy nghiệp thấy sai biệt. Như đồng một sông Hằng mà loài người thấy nước, chư Thiên thấy lưu ly, ngạ quỷ thấy lửa.
Ông thầy Phật giáo còn thiện xảo, biết học trò mình do mê lầm như người ngủ mê nghe tiếng giã gạo thành tiếng chuông, dạy họ thức tỉnh. Hoặc như người đi đêm, vì trời tối thấy sợi dây thành con rắn, dạy họ thấy thiệt tướng của sợi dây.
Đồng một lời giảng, do công đức sai biệt nên nghe thấy khác nhau, “kỳ thật Như Lai không nói điều này mà nghe ra điều này” và đề ra hướng giải quyết. Thử tìm hiểu Phật dùng bốn đế dạy cho ba thừa như thế nào:
“Sau khi rời khỏi cội Bồ Đề, Phật quán thấy năm anh em Kiều Trần Như là những người đáng được độ trước. Phật đi thẳng đến vườn Lộc Uyển, từ xa năm anh em Kiều Trần Như thấy Thái Tử nhưng trong lòng không muốn đón tiếp.
Đến nơi, Phật ba lần tuyên nói: Ta là Như Lai Đẳng Chánh Giác. Bây giờ năm anh em Kiều Trần Như mới miễn cưỡng đón tiếp. Với 32 tướng tốt tỏ lộ, Phật đến gần tuyên thuyết: Này Kiều Trần Như, sắc là vô thường, hễ cái gì vô thường đều biến hoại và sanh khổ não. Này Kiều Trần Như, không nên lấy sắc làm ta, làm ngã của ta, và làm tự ngã của ta, diệt sắc vô thường sẽ được sắc giải thoát thường trụ. Thọ tưởng hành thức cũng đều như vậy.”[[3]]
Với đoạn kinh trên ta thấy khi Phật tuyên nói ba lần “Ta là Như Lai Đẳng Chánh Giác,” với 32 tướng tốt đầy đủ và tỏ lộ, năm anh em Kiều Trần Như biết đây thật là Như Lai Đẳng Chánh Giác. Vì trong kinh Vệ Đà của ngoại đạo có nói về một Đẳng Chánh Giác với 32 tướng, và Như Lai lời nói không hư dối.
Khi thuyết “không lấy sắc làm ta, làm ngã của ta, làm tự ngã của ta” là nói đến sự biến hoại của sắc, cho dù đó là 32 tướng của Phật cũng phải nhập Niết Bàn. Lý luận này bẻ gãy luận cứ của ngoại đạo là hy vọng từ nơi ngũ ấm nếu kiên tâm tu hành có thể thành tựu điều gì đó.
Tiền đề ở đây được nêu lên là ‘ngũ ấm vô thường’, đã vô thường thì không nên căn cứ vào đó để tìm chân lý vĩnh cửu. Không lấy sắc làm ta, có nghĩa không nên cho thân này là của ta. Nếu cái gì của ta khi nó mất đi sẽ khiến ta khổ đau. Ví như tài sản của ta mất đi nhất định ta sẽ đau xót. Nếu tài sản này của ai đó thì chẳng có mối liên hệ nào đối với ta dù mất hay còn. Thân này vô thường nhất định sau 80 năm đời người rồi sẽ diệt mất, cách tốt nhất để khỏi khổ đau khi thân này biến hoại là không có quan niệm sắc này của ta.
Vấn đề thứ hai được nêu lên là không lấy sắc làm ngã của ta. Có nghĩa sắc này đã biết là vô thường thì chẳng thể lấy cái vô thường làm chỗ dựa để so sánh với các sắc khác. Bản chất của thân vô thường thì y vào cái gì để so sánh, nếu căn cứ vào vật vô thường để thấy vật này hoặc hơn hoặc kém vật kia thì sự thấy biết này chẳng thể gọi là người có trí. Có nhất thiết đem thân này so sánh với thân khác để tạo nên sự cột trói vô lý hay không? Muốn giải thoát, Phật khuyên Kiều Trần Như hãy xả cái ngã không thực, cái ngã y chỉ trên thân.
Điều thứ ba được Thế Tôn dẫn ra là không lấy sắc làm tự ngã của ta. Tự ngã ở đây chỉ ra rằng không thể lấy vật vô thường để làm chỗ nương tựa vĩnh hằng. Những ai mong rằng từ thân này sẽ tạo được mối quan hệ bền vững đời đời là chuyện không tưởng, vì bởi thân này nhất định sẽ mất và thân sau là kết tụ của nghiệp. Không có chuyện y nơi thân vô thường tu luyện để cầu mong thân thường, đây là quan niệm sai lầm của ngoại đạo thời bấy giờ.
Thân đã như vậy, thì tâm (thọ, tưởng, hành, thức) cũng đều như vậy, vì thân tâm này là kết quả của nghiệp, nếu y nơi nghiệp thì không thể thoát ra khỏi trói buộc của nghiệp.
Luận chứng này đưa ra tiền đề thứ hai trong bài kinh đó là "diệt (yểm ly) sắc vô thường sẽ được sắc giải thoát thường trụ" có nghĩa người trí cần phải xác lập vị trí của thân trong đời sống. Nếu yểm ly được ba quan niệm trên về thân thì nơi thân này sẽ được thân giải thoát hay giải thoát khỏi sự trói buộc của thân. Thọ, tưởng, hành, thức cũng phải thấy biết như vậy. Tạo sự yểm ly cần thiết bằng sự thấy biết rõ ràng thì giải thoát khỏi trói buộc thân tâm vô thường là điều hiển nhiên. Kiều Trần Như nhờ lời dạy này, chẳng bao lâu sau đó thấu triệt ý nghĩa và chứng A La Hán quả, quả vị cao nhất của hàng Thanh Văn (sau đó Kiều Trần Như có xác quyết, nhân nghe âm thanh của Thế Tôn mà mình giác ngộ).
Căn bản bốn đế Phật triển khai cho Kiều Trần Như ngũ ấm vô thường, biến hoại nên sanh khổ não, biến hoại của sắc là nhân của khổ (tập đế), diệt sắc vô thường (diệt đế) được sắc giải thoát thường trụ (đạo đế). Ta thấy Phật khởi đầu thuyết bốn đế cho Kiều Trần Như chú trọng đến sự ‘vô thường của thân ngũ ấm’, đây là hướng giải quyết kinh điển cho hàng Thanh Văn.
Thanh Văn giác ngộ THÂN này là đầu mối phát sinh mọi khổ đau bởi sự biến hoại của nó và thọ tưởng hành thức cùng chung tính chất. Nguyên lý chủ yếu trong tứ đế đối với Thanh Văn là cái gì làm cho khổ đau hiện hữu cần phải yểm ly cái đó; yểm ly rốt ráo nguyên nhân gây khổ đau cột trói, thoát ra khỏi trói buộc này gọi là giải thoát. Vấn đề được đặt ra là, nếu ngũ ấm không có, hoặc có mà không cột trói thì có khổ không?
Cho nên, thấu suốt bản chất và yểm ly triệt để ngũ ấm là cơ sở đúng đắn mà hàng Thanh Văn đệ tử hướng đến để giải quyết chướng đạo. Một khi ngũ ấm được tịch diệt thì ngũ ấm sẽ không trói buộc; ngũ ấm hết trói buộc thì ngũ uẩn sẽ không tích chứa các thứ khổ thọ.
Hai thứ ngăn che và tích tụ được phá trừ thì mọi khổ đau và cột trói đều giải thoát. Nên kinh dạy: “Ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.”
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật lại phát triển bốn đế theo hướng khác. Duyên khởi A Nan bị Ma Đăng Già quyến rũ sắp mất giới thể. Đối với A Nan sắp mất giới thể là đại khổ (khổ đế).
A Nan không biết rõ nguồn tâm, bảy lần nói tâm đều sai, không thấu suốt nguồn tâm tự thanh tịnh vì thế tâm sinh dục tưởng. Do còn chủng tử dục nên đối trước Ma Đăng Già mới sanh điên đảo (tập đế).
Đây là tiền đề dẫn khởi để bộ kinh ra đời. Như vậy ta thấy tinh thần chủ đạo của kinh là phải thấu suốt nguồn tâm, hư vọng tâm là giềng mối phát sinh mọi khổ đau.
Để giải quyết nan đề này, Phật chỉ ra rằng bản lai tâm tính vốn chơn (thuật ngữ ở đây là Diệu Minh Chơn Tâm), trạm nhiên vắng lặng không dục. Thế nhưng chúng sanh mãi giong ruổi theo tiền trần, nhận tiền cảnh làm tâm quên đi bổn lai thanh tịnh của nó. Vì lầm nhận tiền cảnh làm tâm nên tâm này hư dối. Một khi tâm hư dối thì mọi pháp do tâm này tiếp cận và phán xét đều sai lầm cho nên dục tưởng phát sinh.
Muốn dứt khổ đau do dục tưởng phải quay trở lại bổn tính tự chơn của nó. Khi tâm đã chơn thì mọi thứ từ nó phát ra đều chơn, gọi là tính thấy tính nghe tính hay tính biết. Các căn được tính chơn hộ trì thì mọi thứ, mọi đảo tưởng chấm dứt (diệt đế).
Hướng phát triển của Thủ Lăng Nghiêm hay các kinh thuộc hệ phương đẳng đều quy kết mọi sai lầm chủ yếu bắt nguồn từ ‘tâm mê’. Một khi tâm đã mê thì kiến văn giác tri từ tâm này phát ra đều mê theo.
Một thực tế đối với người tu hành khi đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm là mong muốn thấy được chơn tâm, mong cầu được hộ trì bởi tính thấy nghe. Mong muốn này không có gì sai vì đây là yêu cầu đặt ra trong kinh, và người ta cố tình để nguyên kiến văn giác tri hư vọng này rắp tâm để tìm xem cái gì là chơn tâm, đâu là chơn tánh.
Sự tìm kiếm một cách máy móc này đi ngược lại tinh thần của kinh. Vì lẽ ở đây Phật chỉ giới thiệu tâm tính bản lai tự chơn, bản tâm này bị che khuất bởi hư vọng vô thủy.
Muốn thấy được chơn tâm phải từ bỏ vọng tâm. Khi vọng tâm chưa từ bỏ mà mong tìm kiếm tâm chơn thì cũng giống như người trong bóng tối đòi thấy ánh sáng, một sự đòi hỏi vô lý và không khả thi.
Có nghĩa muốn thấy được diệt đế thì tập đế phải được diệt, không thể chưa làm sạch tập đế mà đòi có chỗ diệt, chẳng khác nào đòi uống nước trong nơi nước đục.
Chơn tâm giống như vật báu chứa cất trong buồng kín ngũ ấm. Muốn thấy vật báu cách tốt nhất là phải phá vỡ buồng kín ngũ ấm, buồng kín ngũ ấm bị phá thì chơn tâm tự hiện.
Chơn tánh bị che mờ bởi lăng kính nghiệp thức, giống như nước trong bị che mờ bởi lớp dầu nổi trên mặt. Muốn thấy được nước trong điều kiện tiên quyết là phải làm sạch lớp dầu trên mặt này.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật triển khai bốn đế rất cụ thể, chỉ ra từng bước một, từng công đoạn phải thực hiện, quy trình làm sạch nguồn tâm chấm dứt mê muội được vạch rõ. Nếu thấu suốt và thực hiện triệt để quy trình này thì tâm tính diệu minh không cần tìm đâu xa. Nơi cõi ác thế ngũ trược này chính là Phật quốc. Bằng ngược lại, nếu giữ nguyên phàm tâm mong tìm thánh quả thì như kinh dạy đó là người mong ép cát ra dầu.
Kinh Kim Cang duyên khởi do Phật khất thực thứ đệ, đệ tử Tu Bồ Đề phát khởi thấy mình (đệ nhất nghĩa không) không giống chỗ phát tâm của chư Bồ Tát (khổ thánh đế) nên hỏi chỗ khéo hộ niệm chư Bồ Tát, phát sinh mối nghi (tập thánh đế). Tu Bồ Đề là Thanh Văn đệ tử chứng đệ nhất nghĩa không.
Chính vì đệ nhất nghĩa không nên không thể biết sở hành “hành ư bố thí” (đạo chơn đế) của chư Bồ Tát (tập thánh đế). Phật dạy: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm (diệt chơn đế) ... Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm (đạo chơn đế),” đây cũng là đoạn kinh Lục Tổ Huệ Năng giác ngộ lần đầu khi nghe kinh Kim Cang. Phật lại dạy: “Bất thủ ư tướng như như bất động” mà bố thí (đạo thánh đế).
Khảo sát kinh Kim Cang ta thấy đây là kinh Đại Thừa, dù là Đại Thừa Phật cũng phát triển trên cơ sở bốn đế. Bốn đế này của hàng Thanh Văn chánh vị; bốn đế ở đây giúp Thanh Văn có sự nhìn lại chánh vị của mình, từ đó có thể hồi tâm hướng về Bồ Tát đạo.
Vì vậy, khổ của Tu Bồ Đề không giống khổ của phàm phu, sở dĩ gọi là khổ vì chưa biết Bồ Tát đạo, chưa thấy thiệt tướng các pháp. Khai triển kinh có thể thấy, chưa biết Bồ Tát đạo là khổ thánh đế. Thủ chấp quả vị là tập thánh đế. Hồi tâm là diệt thánh đế. Biết rõ pháp thí (hành ư bố thí) là đạo thánh đế. Từ cơ sở này Phật tuyên nói bốn chơn đế, tức bốn đế của Bồ Tát, mở ra hướng tu tập mới cho Thanh Văn.
Kinh Viên Giác các Bồ Tát hỏi Phật chỗ phát tâm của chư Phật và chư Bồ Tát, cùng thế nào là Viên Giác trong sạch, y theo chỗ nào để phát tâm, và y theo đâu để biết thiệt nghĩa Viên Giác.
- Bồ Tát chưa thấy các pháp tự thanh tịnh (khổ thánh đế), vì tánh của Viên Giác vắng lặng, không có chỗ phát tâm cũng không phải không phát tâm, chúng sanh như hoa đốm.
- Thấy có quyết định phát tâm (tập thánh đế);
- Khai thị tánh vắng lặng tròn sáng của Viên Giác (diệt thánh đế);
- Nói tột lý để thể nhập, đến lập phương tiện tu hành (đạo thánh đế).
- Không có chúng sanh thế giới mà chúng sanh thế giới vẫn hiện (khổ chơn đế).
- Không có chúng sanh thế giới mà vẫn phát tâm giáo hóa (tập chơn đế).
- Căn thân thế giới không ngoài Viên Giác (diệt chơn đế);
- Viên Giác thanh tịnh không do bốn bệnh mà thành (đạo chơn đế).
Cũng trong một số lời kinh, Phật quảng diễn nghĩa CHƠN, nghĩa này của chư Phật, nên là CHƠN mà không có ĐẾ bởi đã giác ngộ viên mãn.
“Như Lai, này các ông Như Lai là y như chư Phật xưa mà thuyết các pháp” (chơn mà không có đế).
“Nếu ta có một pháp gì để thành Đẳng Chánh Giác thì Phật Nhiên Đăng không thọ ký cho ta hiệu là Thích Ca Mâu Ni.” (chơn mà không có đế).
Ngoài những ý nghĩa đã nêu, bốn đế chính là quy trình giác ngộ và tu chứng của ba thừa. Nói là quy trình bởi lẽ quy trình này không thể đảo ngược, mà phải theo trình tự khổ, tập, diệt, đạo.
Quy trình không thay đổi, nhưng công nghệ để làm ra sản phẩm có thể thay đổi tùy sức giác ngộ mỗi thừa.
- Thanh Văn giác ngộ nơi THÂN;
- Duyên Giác giác ngộ nơi duyên dựa vào cảm THỌ;
- Bồ Tát giác ngộ nơi TÂM;
- Bồ Tát nhất thừa giác ngộ nơi các PHÁP.
− Ba thừa lấy mê lầm làm tập nhân, đồng thời cũng lấy đây làm chỗ diệt. Vì thế ba thừa muốn giác ngộ đầu tiên phải thấy khổ này do đâu, tức hiểu rõ khổ đế và tập đế.
− Thấy rồi phải biết cái gì là diệt, vì sao diệt được, nương nơi đâu để diệt, tức thấu suốt diệt và đế.
− Thấy như vậy mới biết làm thế nào để diệt này vĩnh viễn tịch diệt không tái sinh, tức đạo đế.
Chính thấy biết và giác ngộ sai khác nên ba thừa đồng dựa vào quy trình giống nhau để giác ngộ, tức dựa vào trình tự bốn đế để giác ngộ diệt đế.
Khi thấy được diệt đế cho riêng mình, mới biết đạo đế để tu. Do giác ngộ diệt đế không đồng và đạo đế tùy chỗ diệt phát sinh, nên ba thừa có ba cách giải quyết, tạm gọi là ba thứ công nghệ khác nhau để cho ra sản phẩm riêng mình, đây là kết quả tu chứng của từng thừa.
Ta có thể tạm ví dụ: Đồng một thứ nguyên liệu là gạo nếp và lá chuối, ba người làm ba thứ bánh. Đó là bánh ít, bánh ú, bánh tét. Đầu tiên người làm bánh phải xử lý gạo nếp và lá, sau đó gói thứ bánh mình cần, như vậy hình dáng và tên bánh có trước, tuy bánh này đã có nhưng chưa sử dụng được (khổ, tập, diệt). Bây giờ người gói bánh phải tùy theo loại bánh mà xác định thời gian nấu bánh (đạo). Thời gian và cách xử lý nhiệt khác nhau tùy từng loại bánh, xử lý đúng thời gian và nhiệt độ thích hợp mới cho ra sản phẩm có thể dùng được (đạo đế). Quy trình từ làm bánh đến nấu chín giống nhau, nhưng công nghệ xử lý khác nhau (37 phẩm). Tương tự có thể hiểu ba thừa như ba thứ bánh, đồng một quy trình từ khổ đến đạo, nhưng xử lý không giống nhau. Cũng đồng từ nguyên liệu khổ đau làm thành sản phẩm Niết Bàn.
Quy trình thì giống mà công nghệ lại khác, cho nên mới nói bốn đế nhiếp hết ba thừa. Tất cả kinh điển Phật dạy sở dĩ thấy có khác là vì quy trình và công nghệ không giống nhau này. Những ví dụ điển hình trên để thấy độ sâu của bốn đế không cùng, là giềng mối cho tất cả kinh điển Phật giáo.
Phật y nơi bốn đế để thuyết cho ba thừa khiến họ tùy theo công đức mà vào. Rất nhiều Phật tử không coi trọng bốn đế, không coi trọng nên không tìm hiểu ý nghĩa đích thực từng đế.
Không hiểu ý nghĩa đích thực từng đế nên không thể ứng dụng nơi đây làm căn bản giác ngộ. Không tự thuyết minh cho mình đâu là khổ, đâu là đế, đâu là bốn đế Thanh Văn, bốn đế Bồ Tát.
Do không tự thuyết minh được nên không tự giác ngộ ứng dụng tu hành, không biết tục đế, thánh đế, chơn đế thì không phân định giác ngộ đến đâu hết mê, đến đâu hết lầm.
Ba thừa lẫn lộn nên ứng dụng cũng lẫn lộn, lẫn lộn này dẫn đến thực hành không hiệu quả. Cũng cần phân định mê và lầm là hai pháp khác nhau, mê gồm cả lầm, lầm không gồm cả mê, do đó có thể hết mê nhưng chưa hết lầm (mê khác, lầm khác).
Trong kinh Phật cũng có ví dụ như người từ xa đi đến đầu làng, lúc chập choạng tối, xa xa thấy khối màu đen, không biết đó là đàn trâu hay dãy núi. Hoặc ví dụ sợi dây lầm là con rắn.
Thanh Văn, Bồ Tát quyền thừa hết mê, Bồ Tát nhất thừa mới hết lầm.
Ba thừa đều có khổ, chỉ khác nhau về tính chất và cái gọi là khổ (tục đế, thánh đế, chơn đế) nên tập, diệt, đạo đế khác nhau. Nếu chưa thành Phật thì thánh phàm đều có phần trong bốn đế, nhất định ba thừa phải có ĐẾ.
Từ đầu mối này phát sanh phiền não, khi tu hành cũng lấy đây làm đầu mối giác ngộ cho nên gọi là ĐẾ, vì thế tục đế, thánh đế, chơn đế khác nhau. Vì vậy, có thể kết luận bốn đế là để giác ngộ. Khi đã giác ngộ mới thấy biết phương tiện, nên bốn đế không thuần túy là công cụ tu hành. Bốn đế để giáo dạy cho người giác ngộ, học bốn đế là học làm thế nào để từ một pháp có thể giác ngộ.
Nếu chỉ chú trọng đến học thuộc số pháp trong mỗi đế (giống như mỗi lần làm văn người học trò chỉ mô tả đây là dàn bài kia thân bài còn đây kết luận), không phải bản hoài của chư Phật. Nên Phật dạy: “Không biết bốn đế là khổ đế.” Biết ở đây không phải biết theo cách lập luận thế gian mà biết thật nghĩa của danh và đế.
Nếu chỉ giải thích theo thế pháp, để làm thỏa mãn ý nghĩa văn tự thì đó là “không biết bốn đế” như lời Phật đã dạy.
Trừ chư Phật, còn lại ba thừa đều phải tu hành giác ngộ trong khuôn khổ bốn đế. Mỗi thừa thấy khổ sai khác, tập sai khác, nên diệt và đạo cũng sai khác, do đó ĐẾ của họ cũng sai khác. Có thể coi những hiểu biết nào Y ý nghĩa văn tự để giải thích khổ tập diệt đạo gọi là tục đế.
Tục đế là phần lý luận theo cách cắt nghĩa thế gian có tính lô-gích để chiết phục dẫn dụ người đời chán khổ tìm con đường thoát ly nào đó. Cách giải thích này không chú trọng phần đế, tức không nói nguyên uỷ vì sao có tập và không đào sâu phương tiện ứng dụng chứng quả, chỉ giải thích khổ tập theo hướng nhân thừa thiên thừa. Cách cắt nghĩa vấn đề mang tính giáo thọ, đặt nặng giáo dục luân lý thế gian, và chỉ đưa ra một vài hình ảnh nhằm giới thiệu hệ thống giáo lý căn bản, vì thế Phật dạy: "Do nghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế."[[4]]
Thánh đế bắt nguồn từ thánh giáo; với thánh giáo bốn đế vừa giảng giải cụ thể khổ tập, vừa đề ra phương hướng chứng diệt tu đạo, hướng người nghe thấm nhuần chân lý bằng cách đào sâu ý nghĩa của ĐẾ.
Quy kết đế là cơ sở phát sinh và nương tựa của tập nhân. Lý giải rằng nếu yểm ly đế thì tập không hiện, khổ chấm dứt, sau đó mới chỉ phương tiện làm cho đế trong sạch bằng phương thức giữ giới và yểm ly đế.
Đến khi tập nhân không còn sinh khởi gọi là thánh đế. Đế này phần lớn giáo Thanh Văn và Duyên Giác thừa, đôi khi cũng áp dụng với Bồ Tát quyền thừa. Nhị thừa y như giáo điển của Phật, xuất gia giữ giới tu tập chứng quả theo đúng trình tự Tam Vô Lậu học: Giới-định-huệ bằng phương thức tiệm tiến trải qua bốn giai đoạn là Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, rồi mới chứng quả vị rốt sau A La Hán. Quả chứng của hàng nhị thừa được gọi là thánh quả, y nơi thánh luật lập thành đời sống nên gọi là thánh hạnh. Chỗ chứng gọi là thánh đế, có danh xưng là thánh đệ tử từ miệng Phật sanh, khẩu hiệu được nêu lên: "Thấy khổ biết tập chứng diệt tu đạo.”
Chân đế thuộc về chân giáo, chân giáo dùng chân ngôn lập bày phương tiện chỉ thẳng nguồn mê, có nghĩa giác nơi giáo sẽ ngộ tính chân, tức là giác nguồn mê thì chân tự hiện. Chân giáo không như thánh giáo, tức không chỉ ra một phương tiện cụ thể, chỉ cần người nghe giác ngộ nguồn tâm tự biết mình phải làm gì, tức là ngộ ‘diệt đế’ sẽ thấu suốt ‘đạo đế’. Chân giáo là loại trí giáo của Bồ Tát quyền thừa.
Hạng Bồ Tát này tuy thiên về trí tuệ, dùng trí tuệ để giác ngộ Tam Giải Thoát môn, coi ba môn Không, Vô Tướng, Vô Tác là cửa vào thành Niết Bàn. Tuy đã giác ngộ ba cửa nhưng phải lần lượt tiệm tu để mở ba cửa này, sau đó vào thành khế chứng. Nên chỗ chứng gọi là chân đế mà không nói là chân bởi còn đế để tu tập và chứng quả.
Đời sống được gọi là phạm hạnh, có nghĩa là hạnh của phạm thiên hay hạnh thanh tịnh.
Phật dạy: "Do nghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế. Hàng Thanh Văn Duyên Giác có khổ đế mà không chơn thật. Các vị Bồ Tát hiểu khổ không có khổ mà có chơn đế.
Hàng phàm phu có tập không có đế. Hàng Thanh Văn Duyên Giác có tập có tập đế. Các vị Bồ Tát hiểu tập không có tập mà có chơn đế.
Hàng Thanh Văn Duyên Giác có diệt mà chẳng phải chơn. Bồ Tát có diệt có chơn đế.
Hàng Thanh Văn Duyên Giác có đạo mà chẳng phải chơn. Bồ Tát có đạo có chơn đế.”[[5]]
Riêng Bồ Tát nhất thừa thì không nhân nơi giáo, từ thánh ngôn lượng thành tựu nên cũng không thông qua quá trình tu tập, vì vậy không đề cập đến ĐẾ.
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn Phật có ví dụ minh họa vấn đề này: "Giống như ngà voi già, gặp trời gầm thì nổi vân," có nghĩa ngà voi chưa già hay sừng trâu trời gầm vân cũng không nổi hoặc ngà voi già mà trời không gầm cũng không nổi vân.
Trí tuệ và thánh ngôn lượng tương tác với nhau đúng thời sẽ thấy thiệt tướng, đây là đặc điểm của Bồ Tát nhất thừa. Cách giải quyết vấn đề của thừa này bất khả tư nghì, như Phật giải quyết 108 câu hỏi của Bồ Tát Đại Huệ trong kinh Lăng Già là một điển hình.
Muốn biết mức độ thâm sâu của bốn đế như thế nào, đoạn văn sau đây là phần trích nói về bốn đế trong kinh Hoa Nghiêm; đoạn kinh này có thể được coi là giáo trình chuẩn, giáo Bồ Tát về bốn đế. Trong văn kinh có đủ ba phần giáo là: Thánh giáo, chân giáo, và thánh ngôn lượng.
“Phật lại bảo Ca Diếp Bồ Tát: “ Có thánh hạnh là tứ thánh đế: Khổ, tập, diệt, đạo. Khổ là tướng bức bách. Tập là tướng có thể sanh trưởng. Diệt là tướng tịch diệt. Đạo là tướng đại thừa.
Lại khổ là hiện tướng. Tập là chuyển tướng. Diệt là trừ tướng. Đạo là năng trừ tướng.
Lại khổ có ba tướng: Tướng khổ khổ, tướng hành khổ, tướng hoại khổ. Tập là hai mươi lăm cõi. Diệt là diệt dứt hai mươi lăm cõi. Đạo là tu tập giới, định, huệ.
Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ Tát Đại Thừa trụ nơi Đại Niết Bàn quán sát tham ái có chín thứ như vậy.
- Do nghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế. Hàng Thanh Văn Duyên Giác có khổ đế mà không chơn thật. Các vị Bồ Tát hiểu khổ không có khổ mà có chơn đế.
- Hàng phàm phu có tập không có đế. Hàng Thanh Văn Duyên Giác có tập có tập đế. Các vị Bồ Tát hiểu tập không có tập mà có chơn đế.
- Hàng Thanh Văn Duyên Giác có diệt mà chẳng phải chơn. Bồ Tát có diệt có chơn đế.
- Hàng Thanh Văn Duyên Giác có đạo mà chẳng phải chơn. Bồ Tát có đạo có chơn đế.
Nầy Thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Niết Bàn thấy diệt cùng thấy diệt đế? Chính là dứt trừ tất cả phiền não, nếu phiền não đã dứt thời gọi là thường. Dứt lửa phiền não thời gọi là tịch diệt. Vì phiền não diệt nên đặng hưởng thọ chơn lạc. Chư Phật và Bồ Tát vô nguyện cầu nên gọi là tịnh, chẳng còn thọ thân trong hai mươi lăm cõi nên gọi là xuất thế.
Do xuất thế nên gọi là ngã, là thường. Đối với sắc, thinh, hương, vị, xúc, nam, nữ, sanh, trụ, diệt, khổ, lạc, bất khổ, bất lạc, đều chẳng chấp lấy tướng mạo nên gọi là rốt ráo tịch diệt chơn đế. Đây là Đại Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Niết Bàn quán sát diệt Thánh đế.
Khổ là tướng vô thường, là tướng dứt được đó là thật đế. Như Lai tánh chẳng phải khổ chẳng phải vô thường chẳng phải tướng dứt được vì thế nên là thật. Hư không và Phật tánh cũng như vậy.
Tập là có thể làm cho ngũ ấm hòa hiệp mà sanh, cũng gọi là khổ cũng gọi là vô thường, là tướng dứt được, đây là thật đế. Như Lai chẳng phải là tập, chẳng phải nhơn của ngũ ấm, chẳng phải tướng dứt được vì thế nên là thật. Hư không và Phật tánh cũng như vậy.
Diệt là nói phiền não dứt diệt cũng là thường, cũng là vô thường, hàng nhị thừa chứng đặng gọi là vô thường, chư Phật chứng đặng thời gọi là thường, cũng gọi là pháp chứng đặng, đây là thật đế, Như Lai tánh chẳng gọi là diệt, có thể dứt diệt phiền não, chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chẳng gọi là chứng tri, thường trụ không biến đổi, vì thế nên là thật. Hư không và Phật tánh cũng như vậy.
Đạo là có thể dứt phiền não cũng là thường cũng là vô thường, là pháp có thể tu tập, đây gọi là thật đế. Như Lai chẳng phải đạo có thể dứt phiền não, chẳng phải là thường chẳng phải vô thường, chẳng phải pháp có thể tu tập, thường trụ chẳng biến đổi, vì thế nên là thật. Hư không và Phật tánh cũng như vậy.”[[6]]
[[1]] Trích tóm tắt kinh Đại Niết Bàn.
[[2]] Trích kinh Hoa Nghiêm - HT Thích Trí Tịnh dịch.
[[3]] Trích tóm tắt kinh Phật Bản Hạnh Tập –HT Thích Trung Quán dịch.
[[4]] Trích kinh Hoa Nghiêm – HT. Thích Trí Tịnh dịch.
[[5]] Trích kinh Hoa Nghiêm –HT. Thích Trí Tịnh dịch.
[[6]] Trích kinh Hoa Nghiêm –HT. Thích Trí Tịnh dịch.
(còn nữa)
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






