Ba Mươi Bảy Phẩm – Tứ Chánh Cần

Tứ chánh cần thuộc về tinh tấn, gồm bốn điều: Pháp ác chưa sanh không làm cho sanh; Pháp ác đã sanh phải mau trừ diệt; Pháp thiện chưa sanh mau làm cho sanh; Pháp thiện đã sanh làm cho tăng trưởng.

Tháng 3 12, 2022 - 22:33
Tháng 3 3, 2024 - 06:56
 0  397
Ba Mươi Bảy Phẩm – Tứ Chánh Cần
Phật Giáo Và Thiền - Tác Giả Lý Tứ

Tứ chánh cần thuộc về tinh tấn, gồm bốn điều:

− Pháp ác chưa sanh không làm cho sanh;

− Pháp ác đã sanh phải mau trừ diệt;

− Pháp thiện chưa sanh mau làm cho sanh;

− Pháp thiện đã sanh làm cho tăng trưởng.

Về mặt ngữ ngôn, bốn điều này không khó hiểu, vấn đề trọng tâm được đặt ra là khái niệm thiện ác của bốn điều này nhằm chỉ điều gì, thế nào ‘thiện’, thế nào ‘ác’?

Nếu căn cứ nghĩa lý thế tục thì quan niệm thiện ác mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo, mỗi nền văn hóa, đôi khi không giống nhau. Với dân tộc này hành động này được coi là thiện thì dân tộc kia lại cho là ác; tôn giáo này coi là thiện thì tôn giáo kia không đồng ý; luật pháp đất nước này cấm điều này, nước kia lại không, tùy vào tình cảm, văn minh, văn hóa, phong tục, tập quán, thể chế chính trị, mỗi nơi mỗi chỗ đều có lý riêng của mình, không thể đem nơi này so sánh với nơi kia, tôn giáo này so sánh với tôn giáo kia.

Nói chung quan niệm thiện ác rất khác nhau, vì đây là quan niệm nên không thể thống nhất lại càng không thể giống nhau.

Do đó thiện ác không hàm chứa chân lý, vì nếu nó là chân lý thì nhất nhất phải công nhận bất kể sự khác biệt nào. Ví dụ như 2 + 2 = 4, dù người trời tây hay kẻ trời đông, dù tôn giáo A hay tôn giáo B cũng phải tôn trọng điều này.

Thiện ác tuy không giống nhau về quan niệm nhưng giống nhau ở nguyên tắc, đó là điều gì? Hành động nào nhằm hướng đến hoặc phục vụ mục tiêu tốt đẹp của dân tộc hay tôn giáo sẽ được gọi là thiện, bằng ngược lại gọi là ác.

Thiện ác của Phật giáo ngoài quy luật thông thường đã nêu còn có nhiều quan niệm thiện ác riêng lẻ cho nhiều mục tiêu riêng lẻ của từng thừa trước khi đạt đến cứu cánh chung.

Vì thế, quan niệm thiện ác của Phật giáo rất đa dạng và phong phú, có thể nói khó có tôn giáo nào diễn giải thiện ác giống như Phật giáo.

Vì bởi con đường Phật giáo rất dài gồm nhiều cung đường, mỗi cung đường có một khái niệm thiện ác; với cung đường này hành động này thiện nhưng bước sang cung đường kế tiếp thì trở nên bất thiện hoặc ác.

Phật giáo ngoài thiện ác, giữa hai khái niệm này, có thêm khái niệm bất thiện, nghĩa là không thiện nhưng chẳng phải ác. Chính vì thế để thấu suốt thiện ác của Phật giáo không phải là điều dễ dàng.

Giống như người lữ hành qua nhiều xứ sở với nhiều luật lệ khác nhau, nếu không am tường luật lệ của những xứ sở sẽ qua thì nhất định khó hoàn tất cuộc lữ hành. Như trước đã đề cập tứ chánh cần thuộc về tinh tấn nên trong suốt quá trình tu hành trong Phật đạo luôn luôn có sự tinh tấn. Cho nên tứ chánh cần theo bước chân người tu hành qua mỗi chặng đường đến khi chưa đạt được cứu cánh vẫn chưa thôi nghỉ, vì thế trong thập bát bất cộng của Phật có pháp bất cộng là “tinh tấn không giảm.”

Đa số người trong Phật giáo hiểu thiện ác trên phương diện phước đức, luân lý, hoặc giới luật; những điều nào thuận luân lý hay giới luật, ví như cứu giúp kẻ nghèo, không trộm gà, hái bí, làm phước bố thí, phóng sanh cứu vật, được coi là thiện, bằng ngược lại gọi là ác.

Hiểu như vậy không sai, thậm chí Phật giáo cũng có khuyến khích làm như vậy; nhưng nếu chỉ dừng lại trong phạm vi hiểu biết này thì chưa hoàn toàn đúng. Vì bởi những điều trên đã có giới luật, luân lý đạo đức, thậm chí luật pháp sở tại nêu lên rồi, không nhất thiết phải liệt kê vào 37 phẩm.

Nếu thiện ác của Phật giáo chỉ gồm những khái niệm mang tính luân lý như vậy thì thánh pháp sẽ không xuất hiện. Vì rằng chỉ cần tuân thủ những điều này là đủ, thì cần gì phải thêm thiền định, cũng đâu cần có trí huệ, mà 37 phẩm gọi là pháp trợ Bồ Đề. Nghĩa là tứ chánh cần là 4 pháp nằm trong 37 pháp hỗ trợ viên mãn đạo quả.

  • Vậy tứ chánh cần hay thiện ác của Phật giáo nên hiểu như thế nào là đúng?

Nếu bảo rằng Phật giáo gồm năm thừa: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, và Bồ Tát thừa thì khái niệm thiện ác có khuynh hướng phước đức luân lý đạo đức và một phần giới luật thuộc về Nhân thừa và Thiên thừa; giữ trọn những điều này là bằng lòng chấp nhận thành tựu hai thừa nói trên. Hiểu thiện ác như vậy là đủ không cần thiết phải hiểu biết thêm.

Nhưng cứu cánh Phật giáo lại không tùy thuộc vào hai thừa này mà là đích đến của ba thừa còn lại, cho nên thiện ác của ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát rất khác xa với hai thừa thế gian.

Cứu cánh của ba thừa là Niết Bàn. Con đường đi đến Niết Bàn Phật dạy là lội ngược dòng tham ái. Giống như người đánh xe điều khiển chiếc xe leo ngược dốc, khi nào chiếc xe hướng lên đỉnh để vượt là thiện, dừng lại là bất thiện, lùi lại phía sau là ác.

Ví dụ Thanh Văn vượt thoát ra khỏi ba cõi như con đường gồm ba chặng, chặng thứ nhất dục giới, chặng thứ hai sắc giới, chặng thứ ba vô sắc giới. Ly dục để ra khỏi dục giới vào sắc giới là thiện pháp, bằng lòng với sắc giới là bất thiện pháp, nhớ nghĩ cảnh dục là ác pháp. Ly tầm tứ hỷ lạc để vào vô sắc giới là thiện pháp, tham ưa hỷ lạc là bất thiện pháp, muốn gìn giữ thân tâm để quay lại cõi sắc là ác pháp. Cứ như thế khi nào đạt được mục tiêu giải thoát mới gọi là toàn thiện của thừa Thanh Văn, vì thế chữ thiện trong trường hợp này có thể hiểu như một khái niệm để chỉ mục tiêu giải thoát.

  • Vì thế thuật ngữ THIỆN GIẢI THOÁT ra đời, những gì làm chậm quá trình giải thoát là bất thiện, ham ưa ba cõi nhàm chán giải thoát là ác pháp.

Đoạn kinh sau Phật dạy cho một Tỳ Kheo tu thiền cần ly tư tưởng thoái hóa để ra khỏi cõi dục vào sắc giới:     

“Tỷ Kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ Kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.”[[1]]

Trong đoạn kinh này mô tả phương tiện rời khỏi cõi dục vào cõi sắc, tư tưởng chủ đạo ở đây là ly dục. Câu “ly dục ly ác bất thiện pháp” nhằm nói lên ngoài việc ly dục còn phải ly luôn tư tưởng quay trở lại với dục (ác pháp), không tinh tấn yểm ly (bất thiện pháp).

Trong một đoạn kinh khác, khái niệm thiện ác nêu rõ hơn:  “Chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo muốn thực tu tăng thượng tâm cần phải thường tác ý năm tướng. Thế nào là năm?

Ở đây, Tỳ Kheo y cứ tướng nào, tác ý tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi, thời này các Tỷ Kheo, Tỷ Kheo ấy cần phải tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện không phải tướng kia.

Nhờ tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, không phải tướng kia, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Chư Tỳ Kheo, ví như một người thợ mộc thiện xảo hay đệ tử một người thợ mộc, dùng một cái nêm nhỏ đánh bật ra, đánh tung ra, đánh văng ra một cái nêm khác;

Chư Tỳ Kheo, cũng vậy, khi một Tỳ Kheo y cứ một tướng nào, tác ý một tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi, thời này chư Tỷ Kheo, Tỳ Kheo ấy cần phải tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, không phải tướng kia.

Nhờ tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, khác với tướng kia, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Chư Tỳ Kheo, nếu Tỷ Kheo ấy khi tác ý một tướng khác với tướng kia, liên hệ đến thiện, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời này chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ấy cần phải quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy: "Đây là những tầm bất thiện, đây là những tầm có tội, đây là những tầm có khổ báo".

Nhờ quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy, các bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Chư Tỳ Kheo, ví như một người đàn bà hay người đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân, tánh ưa trang sức nếu một xác rắn, hay xác chó, hay xác người được quàng vào cổ, người ấy phải lo âu, xấu hổ, ghê tởm. Chư Tỳ Kheo, cũng vậy, nếu Tỷ Kheo ấy nhờ quán sát... nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Chư Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ấy trong khi quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời này chư Tỳ Kheo, Tỳ  Kheo ấy cần phải không ức niệm, không tác ý những tầm ấy.

Nhờ không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Chư Tỳ Kheo, ví như một người có mắt, không muốn thấy các sắc pháp nằm trong tầm mắt của mình, người ấy nhắm mắt lại hay ngó qua một bên. Chư Tỳ Kheo, cũng vậy, nếu Tỳ Kheo ấy, trong khi không ức niệm, không tác ý... được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Chư Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ấy trong khi không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên.

Chư Tỳ Kheo, vị Tỳ Kheo ấy cần phải tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy. Nhờ tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục... được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Ví như một người đang đi mau, suy nghĩ: "Tại sao ta lại đi mau? Ta hãy đi chậm lại". Trong khi đi chậm, người ấy suy nghĩ: "Tại sao ta lại đi chậm? Ta hãy dừng lại". Trong khi dừng lại, người ấy suy nghĩ: "Tại sao Ta lại dừng lại? Ta hãy ngồi xuống". Trong khi ngồi, người ấy suy nghĩ: "Tại sao ta lại ngồi? Ta hãy nằm xuống". Chư Tỳ Kheo, như vậy người ấy bỏ dần các cử chỉ thô cứng nhất và làm theo các cử chỉ tế nhị nhất. Chư Tỳ Kheo, cũng vậy, nếu Tỳ Kheo ấy tác ý đến... (như trên)... được an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Chư Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo ấy trong khi tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm, các ác, bất thiện tầm liên hệ... đến si vẫn khởi lên, thời chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ấy phải nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Nhờ nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục... liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong... được an trú, an tịnh nhất tâm, định tĩnh. Ví như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu, hay nắm lấy vai, có thể chế ngự, nhiếp phục, và đánh bại.

Chư Tỳ Kheo, cũng vậy, nếu Tỳ Kheo ấy trong khi tác ý hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ấy phải nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Nhờ nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ trừ diệt chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Chư Tỳ Kheo, nếu Tỳ Kheo, trong khi y cứ tướng nào, tác ý tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi. Tỳ Kheo ấy tác ý một tướng khác, liên hệ đến thiện, khác với tướng kia, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được diệt trừ, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Tỳ Kheo ấy, nhờ quán sát sự nguy hiểm các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Tỳ Kheo ấy, nhờ không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Tỳ Kheo ấy tác ý hành tướng các tầm và an trú các tầm, các ác,  bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân,  liên hệ đến si được trừ diệt,  đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Tỳ Kheo ấy nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ấy được gọi là đã an trú trong đọa tầm pháp môn. Vị ấy có thể tác ý đến tầm nào vị ấy muốn, có thể không tác ý đến tầm nào vị ấy không muốn; vị ấy đã đoạn trừ khát ái, đã giải thoát các kiết sử, khéo chinh phục kiêu mạn, đã chấm dứt khổ đau.”[[2]]

  • Trong đạo xuất thế, thiện ác vượt ra khỏi những khái niệm thường tình, không thể lấy thước đo thế tục để làm khuôn mẫu, vì vậy ba thừa có nhiều chỗ không giống nhau, thậm chí trái ngược là khác.

Ví dụ Bồ Tát khi nào khởi lên ý tưởng nhàm chán ba cõi là bất thiện pháp, từ bỏ không gần gũi giáo hóa chúng sanh là ác pháp. Còn nhị thừa thì ngược lại, thậm chí trong đây nhiều vấn đề nhạy cảm mà người tín căn không sâu dày khi nghe qua khó có thể chấp nhận.

Trong phạm vi bài luận chỉ có thể nêu một vài hình ảnh điển hình nhằm giới thiệu đôi nét về tứ chánh cần trong Phật đạo. Từ đây người đọc có cái nhìn tổng quát và định hướng cho mình khái niệm thiện ác để tự vượt con dốc thế gian thể nhập vào cảnh giới yên bình.

Nếu chỉ suy luận một chiều theo thói quen và chấp nhận những kết luận chủ quan không căn cứ vào thánh pháp, có nghĩa chỉ y theo ‘thức’ để phán xét đúng sai thì khó lòng đạt đến chiều sâu cần có để thâm nhập những ngữ nghĩa ảo diệu trong Phật pháp.

Để ngăn ngừa những lỗi lầm không đáng có này, Phật dạy Tứ Bất Y là:

Y pháp bất y nhân;

Y nghĩa bất y ngữ;

Y trí bất y thức;

Y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa.

Coi như lời nhắc nhở hãy ra khỏi bốn điều mà người đời lấy đó làm căn cứ, thì không thể thấy được ý nghĩa đích thực của Phật giáo.

[[1]] Trích kinh Sa Môn Quả -HT. Thích Minh Châu dịch.

[[2]] Trích kinh An Trú Tâm –HT. Thích Minh Châu dịch.

(còn nữa)

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

like

dislike

love

funny

angry

sad

wow