Tỳ Bà Xá Na (Huệ Quán)

Tỳ Bà Xá Na là pháp quán thuần túy của hệ Bát Nhã dành cho đối tượng giác ngộ thâm sâu. Nương nơi trí thanh tịnh quan sát vạn pháp, thấy thân tâm và vạn pháp chỉ do mê hiện, huyễn hóa vô thường.

Tháng 3 15, 2022 - 05:48
Tháng 3 3, 2024 - 07:31
 0  340
Tỳ Bà Xá Na (Huệ Quán)

“Này Thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát ngộ được Viên Giác thanh tịnh rồi, thì y theo tâm Viên Giác thanh tịnh mà quán sát tâm tánh, thân căn và trần cảnh này đều là vật huyễn hóa. Lúc bấy giờ Bồ Tát khởi ra trí như huyễn để trừ các pháp như huyễn; làm các hạnh như huyễn để hóa độ chúng sanh như huyễn. Bởi Bồ Tát tu pháp quán như huyễn này, nên phát đại bi tâm thương xót cứu khổ tất cả chúng sanh mà vẫn nhẹ nhàng thư thới (đại bi khinh an) không tham trước luyến ái nơi chúng sanh.”[[1]]

Nếu pháp Xa Ma Tha nương sức thanh tịnh để huân lắng vọng niệm thì pháp Tỳ Bà Xá Na còn gọi Tam Ma Bát Đề hay pháp quán như huyễn là làm ngược lại. Đây là pháp quán thuần túy của hệ Bát Nhã dành cho đối tượng giác ngộ thâm sâu.

Nương nơi trí thanh tịnh quan sát vạn pháp, thấy thân tâm và vạn pháp chỉ do mê hiện, huyễn hóa vô thường. Kinh gọi: “Bồ Tát khởi trí tuệ như huyễn để trừ các pháp như huyễn, làm các hạnh như huyễn để hóa độ chúng sanh như huyễn.”

Các pháp như huyễn giống trăng trong nước còn trí huệ như huyễn là gì? Sau khi giác ngộ các pháp như huyễn, thấy các cảnh chỉ do tâm biến hiện như mộng, huyễn, bào, ảnh. Thấy như vậy Bồ Tát không mê mờ các pháp, nhưng tâm biết các pháp như huyễn vẫn còn, chính tâm này làm ngại, ngại vì bốn tướng chưa dứt.

  • Bốn tướng Bồ Tát không giống bốn tướng phàm phu, Thanh Văn, hay Duyên Giác. Tướng nhân là tâm năng giác, tướng ngã là tướng sở giác,  tướng chúng sinh là tướng ba cõi khổ đáng được độ,  tướng thọ giả là tướng có chúng sinh khổ cần phải độ.

Bốn tướng này y nơi huyễn trí hiện khởi, Bồ Tát quán sát trí huệ này cũng là một pháp. Trí biết này là một pháp nên trí này cũng huyễn, gọi là huyễn vì chưa phải thiệt, chỉ như chơn chứ chưa phải chơn. Trí này do giác ngộ mà được chứ không phải bản nhiên tự được.

Chưa phải tự nhiên trí vì đây là sự ảnh chiếu của Viên Giác mà có, nó là chân dung của một vật nào đó. Giống nơi ao nước thấy mặt trăng thứ hai, mặt trăng dưới ao không khác mặt trăng trên trời về mặt tướng trạng, cũng thanh tịnh cũng tròn sáng. Chỉ khác là mặt trăng dưới ao chỉ chiếu tự thân còn mặt trăng trên trời chiếu khắp vạn vật. Nơi nào tiếp được nguồn sáng sẽ được sáng và mát mẽ thanh lương, đây là hai cảnh giới khác nhau của Ba La Mật. Một bên trụ nơi Ba La Mật để bố thí một bên thí Ba La Mật.

Khi nào phát khởi huyễn trí, quán huyễn cảnh đến thấu suốt thì huyễn trí này sẽ phát huy tác dụng. Lấy đây hóa độ chúng sanh tích lũy công đức, khi đủ mới thấy thật trí hay căn bản trí.

Huyễn trí này với Như Lai tàng không phải hai, nên không thể rốt ráo diệt được. Nếu không diệt thì huyễn trí này sẽ chướng Viên Giác, diệt thì không thể diệt vì như mộng, huyễn. Biết các pháp như huyễn, chúng sanh như huyễn, nhưng thiệt có chúng sanh đang khổ và đáng được độ.

Bồ Tát phát khởi đại bi tâm hóa độ chúng sanh, phát nguyện xong huyễn trí kia chỉ thuần là bi tâm. Năng tâm trở thành năng bi. Trong quá trình hóa độ các phương tiện môn và giải thoát môn lần lượt hiện cho đến thiện xảo sẽ thành tựu nhất thiết trí gọi là thấy Phật tánh. Đây là sự thấy biết sau cùng của Bồ Tát. Trong quá trình dùng huyễn trí độ huyễn chúng sanh, bốn tướng lần lượt tịch diệt. Khi bốn tướng diệt thiệt tướng sẽ hiện, cái thấy viên mãn này mới đúng là chánh tri kiến.

  • Trong quá trình tịch diệt, bốn tướng chuyển thành bốn tâm đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Cho nên tứ vô lượng tâm bây giờ có ý nghĩa khác lớn lao hơn.
  • Bình đẳng không năng sở là tâm từ. Khởi phát các loại phương tiện giáo hóa chúng sanh là tâm bi. Thấy chúng sanh có Phật tánh là tâm hỷ.  Biết rõ chúng sanh chẳng phải là chúng sanh gọi là tâm xả.
  • Tứ vô lượng tâm thành tựu, công việc hóa độ chúng sanh sẽ nhẹ nhàng vì có đủ phương tiện lực nên kinh mới nói: “Nên phát đại bi tâm thương xót cứu khổ tất cả chúng sanh mà vẫn nhẹ nhàng thư thới (đại bi khinh an) không tham trước luyến ái nơi chúng sanh.”

“Tất cả Bồ Tát, đều y theo pháp quán như huyễn này mà tu hành, lần lần tăng tiến. Ban đầu quán cảnh là huyễn, nhưng người quán chưa phải huyễn; sau người quán cũng là huyễn và cuối cùng hoàn toàn xa lìa các tướng huyễn (lúc bấy giờ cái phi huyễn hiện ra). Thế là Bồ Tát đã hoàn thành được pháp quán mầu nhiệm này. Bồ Tát lần lượt tiến tu, cũng như đất làm cho mầm mộng lần hồi được sanh trưởng. Phương tiện tu như thế, gọi là Tam Ma Bát Đề.”[[2]]

“Bồ Tát lần lượt tiến tu, cũng như đất làm cho mầm mộng lần hồi được sanh trưởng.” Bồ Tát xả bỏ tất cả mọi thứ nhưng tâm bi không xả. Bản tâm thanh tịnh không sanh không diệt, từ bi là mầm Vô Thượng Bồ Đề mọc trên đất vô sanh.

Tuy biết chúng sanh như huyễn nhưng Bồ Tát giáo độ không mỏi chán. Đây là sự huyền diệu của Phật pháp. Cho dù muôn pháp tịch diệt nhưng Phật pháp vẫn có nghĩa thường.

Tứ vô lượng tâm của chư Phật đều bắt nguồn từ bi tâm. Có bi tâm, trung đạo, Phật tánh dần dần tự hiện nên Bồ Tát tán Phật như sau:

“Thế gian ly sanh diệt

 Do như hư không hoa

Trí bất đắc hữu vô

Nhi hưng đại bi tâm

Nhứt thiết pháp như huyễn

Viễn ly ư tâm thức

Trí bất đắc hữu vô

Nhi hưng đại bi tâm.”

[[1]] Trích kinh Viên Giác –HT. Thích Thiện Hoa dịch.

[[2]] Trích kinh Viên Giác –HT. Thích Thiện Hoa dịch.

(còn nữa)

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

like

dislike

love

funny

angry

sad

wow