Chánh Pháp Nguyên Chất, Loài Nga Vương Là Gì?
Đúng chánh pháp nguyên chất sẽ cho ra ba sản phẩm cao cấp, đó là: Giác Ngộ, Giải Thoát và Trí Tuệ. Những sản phẩm cao cấp này, ngoài nguyên liệu là chánh pháp mới có thể làm ra nó, sẽ không còn một thứ nguyên liệu nào khác trên đời, có thể làm ra.

Hỏi: Kinh Đại Niết Bàn, Phật dạy với đại ý: “Trong thời mạt pháp, chánh pháp của Đức Thế Tôn bị pha loãng. Giống như những người bán sữa, đã pha loãng sữa qua năm mươi lần.” Xin hỏi: Sữa mà pha năm lần, tức một sữa năm nước đã không còn ý vị gì của sữa nữa rồi. Huống hồ, pha đến lần thứ năm mươi, phỏng người đời nay tu hành trong Phật Đạo, có còn chút lợi ích gì của chánh pháp?
Đáp: Trong Kinh Đại Niết Bàn, Phật cũng có nói: “Tuy sữa đã pha lần thứ năm mươi nhưng khi nấu cháo, thứ cháo sữa này ăn vào, vẫn còn ý vị hơn thứ cháo nấu bằng nước lạnh…” Vì thế, nếu không có cháo sữa nguyên chất, thì ta tạm ăn thứ cháo có chút mùi sữa vậy.
Hỏi: Có cách gì tìm thứ sữa chánh pháp nguyên chất trong thời mạt pháp này hay không?
Đáp: Tất nhiên là có, vì Tam Bảo thường trụ mà.
Hỏi: Tìm những điều đó bằng cách nào?
Đáp: Kinh Đại Niết Bàn, Phật cũng dạy: “Có loài Nga Vương, khi thọc mỏ vào hỗn hợp hòa tan sữa với nước để uống, con Nga Vương chỉ hút lấy sữa, còn nước thì chừa lại.”
Theo như lời dạy của Phật, cho dù sữa đã pha năm mươi lần, chứ đến năm trăm lần, đối với con Nga Vương cũng không khó khăn gì. Khi con Nga Vương muốn uống sữa nguyên chất, cho dù sữa ấy đã bị hòa tan trong nước, nhất định nó vẫn sẽ hút được.
Như thế, có thể hiểu, cho dù cách xa Phật nhiều ngàn năm nhưng những gì Đức Phật nói ra được ghi lại trong kinh tạng thì nếu đúng là loài Nga Vương, nó vẫn có thể rút ra ý vị chân thật của chánh pháp không hề sai lệch, cho dù ngay trong thời mạt pháp này.
Hỏi: Làm sao để biết đó là ý vị nguyên chất của thứ sữa chánh pháp được rút ra từ trong hỗn hợp đã pha quá loãng ở thời mạt pháp này?
Đáp: Kinh Đại Niết Bàn, Phật cũng có dạy đại ý: “Nếu là sữa nguyên chất, qua bàn tay thiện xảo của người biết chế biến, mùi vị ấy có thể chế biến thành lạc, tô và đề hồ”. Cho nên, sữa nguyên chất không chỉ có công dụng ít ỏi như là nấu cháo cho người bệnh, mà còn trở thành những sản phẩm thượng diệu như: Lạc, tô và đề hồ.
Vì thế, ở đâu có lạc, tô và đề hồ thì biết rằng ở đó có sữa nguyên chất.
Hỏi: Các sản phẩm lạc, tô và đề hồ được chế biến từ sữa nguyên chất, có ý nghĩa gì tương ứng với các sản phẩm cho ra từ chánh pháp?
Đáp: Nếu sữa nguyên chất, nhất định cho ra ba sản phẩm chánh là lạc, tô và đề hồ. Đúng chánh pháp sẽ cho ra ba sản phẩm cao cấp, đó là: Giác Ngộ, Giải Thoát và Trí Tuệ. Những sản phẩm cao cấp này, ngoài nguyên liệu là chánh pháp mới có thể làm ra nó, sẽ không còn một thứ nguyên liệu nào khác trên đời, có thể làm ra.
Hỏi: Vì sao nói rằng: đúng chánh pháp sẽ cho ra ba chánh phẩm cao cấp đó là: Giác Ngộ, Giải Thoát và Trí Tuệ mà không nói đến những thứ phẩm khác?
Đáp: Những thứ phẩm khác, giống như “cháo sữa”, chỉ là sản phẩm bất đắc dĩ, Công dụng của nó tạm dùng làm thức ăn dễ tiêu hóa cho người bệnh. Vì thế, thứ phẩm như cháo sữa, không phải là sản phẩm chính thuộc về mong ước của người sở hữu sữa nguyên chất.
Hỏi: Như vậy, quá trình trích ly lấy sữa nguyên chất từ sữa đã pha loãng, giữa con Nga Vương và loài không phải là Nga Vương khác biệt chỗ nào?
Đáp: Phật dạy, cũng đồng thời tu hành trong Phật Đạo, nhưng quá trình trích ly từ giáo pháp để thu hoạch sản phẩm, do trình độ sai biệt nên có năm thừa ra đời. Đó là Nhân thừa, Thiên thừa, Nhị thừa (Thanh Văn, Duyên Giác) và Bồ Tát (Phật) thừa.
Hỏi: Kỹ thuật trích ly sữa trong nước của năm thừa, cơ bản khác nhau như thế nào?
Đáp: Cơ bản của năm thừa, khác nhau do trình độ nhận thức về giáo pháp, nên khi trích ly giáo pháp từ khối lượng đồ sộ của kinh điển, từng thừa cho ra những sản phẩm tương đương với trình độ nhận thức và kỹ thuật của họ. Giá trị sản phẩm cũng chỉ tương đương với những gì họ thu hoạch được sau khi trích ly. Giống như sữa nguyên chất, sau khi hòa tan, tùy vào công nghệ kỹ thuật lạc hậu hay tối tân, mà người ta thu hoạch được các loại sữa cao cấp hay tầm thường.
Hỏi: Xin Thầy nói rõ, nhận thức khác biệt của năm “thừa”?
Đáp: Năm thừa có năm tầng nhận thức khác nhau về việc tu hành trong Phật Đạo. Đó là năm nhãn quan của từng tầng bậc tu hành, Phật Đạo gọi nôm na là “ngũ nhãn”, ngũ nhãn gồm: Nhục nhãn, Thiên nhãn, Pháp nhãn, Huệ nhãn và Phật nhãn.
Hỏi: Năm nhãn quan đó khi soi chiếu vào kinh điển, sẽ cho ra kết quả như thế nào?
Đáp:
- Nhục nhãn: Thuộc về Nhân thừa, gồm những người tu hành trong Phật Đạo, đọc tụng kinh điển chỉ tìm thấy trong đó các ý nghĩa thuộc về luân lý đạo đức hay tôn giáo. Vì thế, khi ứng dụng giáo pháp của Phật, kết quả đạt được là một con người tốt, có đạo đức trong xã hội. Hạng này giống như, người bệnh phong hàn lại đi ngoài gió mưa, chỉ mong tìm chỗ kín đáo để ẩn nấp, không cầu mong thứ gì cao xa hơn..
- Thiên nhãn: Thuộc về Thiên thừa, gồm những người tu hành trong Phật Đạo, nhưng chỉ mong ước trở thành thiện nhân, chuyên làm phước bố thí để được quả báo lành. Cao hơn nữa, là những vị tu hành, rút tỉa ý nghĩa kinh điển vun bồi cho sức thiền định. Hạng này chỉ mong được chút thiền định phòng thân, ngoài ra không dám mơ ước khác.
Hai hạng này, Phật Đạo gọi là “Phước Sanh Thiên” và “Định Sanh Thiên”. Giống như người bệnh kinh niên, lâu ngày không ăn uống được, nay gặp chút cháo sữa, ăn vào thân thể dễ chịu. Sau đó ngày ngày, người đó quyết ăn cho được cháo sữa mới thôi và với họ chỉ có “cháo sữa và cháo sữa là bậc nhất.”
- Pháp nhãn: Thuộc về người có Giác Ngộ chân chánh trong Phật Đạo. Hạng này đọc kinh điển, nhìn thấy tất cả ý nghĩa ở trong đó đều quy về Thanh Tịnh Tâm, hạng này, Phật Đạo gọi là đắc “Pháp Nhãn Thanh Tịnh”! Giống như người bệnh, trong lúc uống thuốc, nhờ đúng thuốc mà bệnh tình thuyên giảm, thân tâm an ổn, càng uống càng sảng khoái, càng uống càng mau hết bệnh.
- Huệ nhãn: Thuộc về những người đã thành tựu Giác Ngộ và Giải Thoát, đang trên đường tu học Huyễn Trí. Hạng này khi đọc tụng kinh điển, tìm thấy các huyễn pháp do Phật và chư Bồ Tát tuyên thuyết trong đó. Họ tư duy, thấu suốt và học tập những huyễn pháp này, đến khi có cơ hội, sẽ như pháp mà giúp người, hạng này, Phật Đạo gọi là đắc Huệ Nhãn. Giống như một vị Dược Sư, khi cầm viên thuốc lên, vị này liền tìm hiểu thành phần và cách chế tạo món thuốc đó.
- Phật nhãn: Thuộc về Vô Sư Trí. Khi đọc kinh điển Phật để lại, vị này thấu suốt nguyên ủy vì sao trong hoàn cảnh này Phật thuyết điều này, mà không thuyết điều kia. Vì sao, trong hoàn cảnh kia, Phật nói như vậy mà không nói như vậy.
Giống người trên đỉnh cao, có thể chỉ cho tất cả những người đang ở dưới chân núi từ mọi phương hướng, đều có thể lên đến đỉnh núi an toàn. Hoặc giống như lương y giỏi, có thể cứu chữa tất cả bệnh nhân, chỉ trừ người “mang nghiệp phải chết để đền tội” và “hạng không chịu uống thuốc”.
- Tóm lại, tùy theo nhận thức của từng chủng tánh sai biệt nên trong một Phật Đạo lại có năm thừa. Mỗi thừa lại theo nhãn quan, trình độ của mình rút tỉa và ứng dụng giáo pháp trong phạm vi phù hợp với từng chủng tánh, giống như con voi chở nhiều, con thỏ chở ít. Chuyện này cũng không có gì là lạ.
Hỏi: Theo Pháp Uyển Châu Lâm, thời mạt pháp “Bạch y xưng làm bậc mô phạm, còn Tỳ-kheo vô thức theo đó mà học.” Điều này là đúng hay sai?
Đáp: Trong Bồ Tát Đạo, người có trí tuệ dạy người vô trí, không phân biệt hình tướng. Những thứ: chánh, tượng, mạt pháp gì cũng không ra khỏi quy luật này.
Dưới thời Phật tại thế cũng như vậy, phần lớn các Đại Bồ Tát là bạch y, nên có danh xưng Đại Sĩ. Vì rằng, học Phật Đạo là học chân lý, chứ không phải học hình tướng. Ở đâu có chân lý thì đến đó cầu học. Đời và đạo, xưa nay đều tôn trọng điều này. Cho đến tiền thân Bồ Tát Thích Ca còn phải cầu học hai câu kệ nơi con quỷ La Sát.
Vì thế, có lẽ nên nói lại rằng: “Những ai đã là Phật Tử, biết rõ nơi nào có chân lý, mà không tìm đến để cầu học, hạng này nhất định sinh ở đâu, thì ở đó là mạt pháp, bất kể hình tướng của kẻ đó như thế nào”. Vả chăng, những tác phẩm đời sau, chưa chắc đủ sức làm mẫu mực trong Phật Đạo, cũng chưa phải là nơi nhất định mọi người tu hành y cứ để xem đó như kim chỉ nam.
Chuyện trên giống như nhà kia, cha mẹ không đủ năng lực để dạy dỗ con cái. Thế nên buộc lòng con cái phải nhờ anh em, hàng xóm, hoặc người ngoài xã hội dạy dỗ chúng. Điều này phận làm cha mẹ nên cảm ơn mới phải, cớ gì lại buông lời trách cứ những người tốt kia.
Còn nếu nói rằng: “Nghe lời bạch y, không nghe lời Tỳ Kheo vì thế nên gọi là mạt pháp.” Điều này giống như làm cha mẹ mà dạy dỗ thế nào, để con cái phải chạy ra ngoài đường cầu học cái tốt cái hay, cái có chân lý của người ta. Sau đó, những người ngày lại đổ thừa chỉ vì con cái học ở ngoài đường, mà ngày nay xa cội nguồn.
Thử hỏi, có thứ cội nguồn nào lại có thể gìn giữ trong gia đình mà các bậc tôn túc đáng kính trọng lại yếu kém năng lực giáo huấn bề dưới như vậy?
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






