Tổng Kết Chủ Đề: Làm Thế Nào Để Diệt Tham Sân Si???
Tổng kết Trò chơi trí tuệ số 06.2020 với chủ đề làm thế nào để diệt tham sân si

Các bạn !!!
Trong nửa tháng phát động Trò Chơi Trí Tuệ – 06/2020 !!! BQT đã nhận được 09 bài viết trả lời, của: Lý Thiện Cảnh, Lý Diệu Âm, Lý Nguyên Trang, Lý Lục Vũ, Lý Nhạn Ảnh, Lý Tâm Pháp, Lý Thái Đăng, Lý Thiện Huệ, Lý Giác Thư… Đây là kì TCTT có số lượng bài viết trả lời ít nhất trong các kì TCTT diễn ra trong 10 năm qua !!!
Đặc biệt, tất cả các trả lời lần này, đều đạt yêu cầu câu hỏi đặt ra… Trong đó có hai vị HĐ lần đầu tiên tham gia TCTT là Lý Diệu Âm và Lý Lục Vũ !!! SM Lý Diệu Âm nhập môn làm HĐ Lý Gia vừa được một tháng sáu ngày, nhưng các câu trả lời của vị SM này không hề thua kém bất kì trả lời của các HĐ đi trước…Xin tán thán hai HĐ Lý Lục Vũ và Lý Diệu Âm !!!
BQT xin chuyển đến các bạn, các bài viết tiêu biểu của Lý Thiện Huệ, Lý Lục Vũ, Lý Thái Đăng và Lý Giác Thư !!!
26/07/2020
LÝ TỨ
1. Bài viết của Lý Thiện Huệ
Thầy kính!!!
Con xin đảnh lễ Thầy ba lạy!!!
Con Xin trả lời các câu hỏi:
1) Vì sao khi tuyên thuyết Diệu Pháp Liên Hoa, 5000 người mắc lỗi tăng thượng mạn (chưa chứng nói chứng) bỏ về ??? Giả sử, 5000 người ấy không bỏ về, ở lại để nghe Phật thuyết pháp, họ có lãnh hội được gì không ??? Vì sao được, vì sao không ??? Xin giải thích cụ thể và cho ví dụ minh hoạ !!!
Trả Lời:
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có dạy: “Đại sự nhân duyên Phật ra đời là để Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến cho chúng sanh”. Qua lời dạy của Phật, con hiểu “Phật tri kiến” mới là mục tiêu cần thành tựu của vị tu hành.
Tuy nhiên, để được học và có thể thành tựu mục tiêu này về sau, đòi hỏi vị tu hành phải đáp ứng một số điều kiện nhất định của việc học. Đó là, vị này phải thành tựu Đạo quả xuất thế. Tức là những vị ấy đã hoàn thành phần tự độ, tâm thức luôn được sáng suốt, không còn bị các khổ, kiết sử, phiền não và lậu hoặc làm cho che mờ tâm trí. Đây là điều kiện gần như bắt buộc đối với vị tu hành muốn cầu học Phật tri kiến.
Vì rằng, “Phật tri kiến” không thể thành tựu trên một tâm thức bị nhiễm ô và phiền não. Ngũ Tổ dạy rằng “Bất thức bổn tâm, học pháp vô ích”. Ví như nguồn nước đã bị nhiễm bẩn, cho dù cố đổ thứ gì vào, thì thứ đó cũng bị nguồn nước kia làm cho ô nhiễm. Để sử dụng được, liệu pháp duy nhất, trước xử lý nguồn nước, sau mới có thể sử dụng được như ý.
Chính vì vậy, trước khi Phật tuyên thuyết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, 5000 người mắc lỗi tăng thượng mạn (chưa chứng nới chứng) phải rời Pháp hội mà bỏ về. Hành vi này nói lên hai điều:
Một: Lỗi “Tăng thượng mạn” minh chứng tâm thức vị này chưa được giải thoát, cấu uế trong tâm chưa được dứt trừ, ngã chúng sanh vẫn còn hiện hữu, nên những vị ấy bỏ hội chúng ra về trước khi nghe Phật thuyết.
Hai: Nói lên khả năng nhận thức. Thấy biết như thế, không thể tiếp nhận tri kiến sâu hơn, nếu có cố ở lại nghe Phật thuyết cũng không thể hiểu hết nghĩa lí. Vì rằng Phật tri kiến siêu quá nhận thức thế gian, thuộc về Xuất thế gian pháp, những vị tu hành chưa hoàn toàn giác ngộ, không thể hiểu được Tri kiến Phật.
Giống như việc học ở đời, vị này muốn vào học Đại học, thì phải tốt nghiệp bậc Phổ thông trung học. Đây là điều kiện bắt buộc, không hoàn thành cấp học này, không được vào Đại học, vì sự chênh lệch về trình độ nhận thức, có cố học cũng không thể hiểu, càng không thể thành tựu điều gì có lợi cho mình và cho người.
Trong Phật Đạo cũng tương tợ như vậy. Học Phật tri kiến như tiến trình học Đại học sau khi tốt nghiệp Phổ thông. Vị tu hành phải thành tựu lần lượt ba Đế trong Tứ Đế: Khổ đế, Tập Đế và sau cùng là thành tựu Diệt Đế, để hoàn thành phần tự độ. Sau mới học Đạo Đế, để tiếp tục hướng về Vô thượng quả, thành tựu Trí tuệ Vô thượng.
Cấp khổ đế sẽ giúp vị tu hành dứt trừ các món khổ của thế gian: Sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, cầu bất đắc khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thịnh khổ.
Cấp Tập đế giúp vị tu hành dứt trừ các món phiền não, 10 kiết sử và lậu hoặc làm rĩ chảy, che mờ tâm thức của chúng sanh.
Cấp Diệt để giúp vị tu hành thành tựu Bổn tâm, Kiến Bổn tánh. Hoàn thành phần tựu độ.
2) Trong hai nhóm kiết sử là độn sử (lỗi hành vi) và lợi sử (lỗi nhận thức)… Mọi người đều biết, người có được giác ngộ là nhờ thay đổi nhận thức như pháp, từ đó hành vi thay đổi theo… Vì thế tham, sân, si muội lược cho đến chấm dứt !!! Nếu một người không học tập để thay đổi nhận thức, người ấy cứ nhắm thẳng tham, sân, si mà tiêu diệt, hành động như thế có hợp lí không ??? Và kết quả cao nhất của hành động này là gì ??? Đề nghị giải thích và cho ví dụ !!!
Trả Lời:
Theo con hiểu:
Kiết: Là Kết tức là cột trói. Sử: Tức là sai sử. Đây là 10 món cột trói, sai sử, làm cho chúng sanh khổ đau và phiền não, được chia làm hai nhóm:
Năm độn sử thuộc về lỗi hành vi: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi.
Năm lợi sử thuộc về lỗi nhận thức: Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ kiến, Giới cấm thủ kiến, Tà kiến.
Nếu một người tu hành, không học tập để thay đổi nhận thức, người ấy cứ nhắm thẳng tham, sân, si mà tiêu diệt, hành động như thế, theo con không hợp lí.
Vì tu hành chính là quá trình thay đổi nhận thức. Khi nhận thức được thay đổi thì hành vi sẽ thay đổi. Khi hành vi thay đổi, đời sống sẽ thay đổi. Đời sống được thay đổi như pháp, được gọi là Tu trong Phật Đạo.
Tiến trình thay đổi nhận thức như pháp, chính là quá trình tu tập như pháp mà thành tựu. Nhận thức quyết định hành vi, một khi nhận thức được thay đổi thì chắc chắn hành vi sẽ thay đổi.
Tham sân si thuộc về lỗi hành vi, là ba món kiết sử trong mười thứ kiết sử. Gọi là lỗi, là do nhận thức không đúng bàn chất của sự vật sự viêc trước thấy nghe hay biết của một hữu tình nên tham sân… hiện hữu. Chỉ vì mê nơi nhận thức của thế gian, nên thường sanh tâm chấp trước sự việc, hợp với quan điểm của mình thì sanh tâm vui, trái lại sanh sân, sân không được, lâu ngày thành si. Si tâm là trạng thái tâm thức bị chìm đắm trong quan điểm của riêng mình.
Với vị tu hành, chỉ cần ý thức “Quan điểm, quan niệm..” không hề có chân lí, từ nay thôi không ôm giữ chúng vào trong lòng. Trước muôn cảnh muôn duyên, khi các căn xúc đối với các trần, không sanh tâm phân biệt, tâm ý sẽ không bị dao động, tham sân cũng từ đấy mà tịch diệt. Ý thức được như vậy, không cần phải tiêu diệt tham sân mà tham sân… cũng không hiện.
Trái lại, nếu một vị tu hành, cứ nhắm thẳng tham, sân, si mà tiêu diệt, hành động này chỉ chuốt thêm hệ lụy, mê càng thêm mê, không thể dứt trừ được tận gốc của khổ đau. Hành vi này, chẳng khác nào lấy đá đè lên cỏ, chỉ ngăn chặng được tạm thời, nhưng một khi bất giác, thì tham, sân lại hiện, đôi khi còn hẫy hừng hơn trước, khiến tâm thức vị tu hành luôn đắm chìm trong phiền não khổ.
Xét đến cùng việc làm này không cho ra một kết quả gì có lợi cho người tu hành. Vì rằng tham, sân, si.. không thực có. Chỉ có trong lúc mê, hết mê, tham sân tự diệt. Vì vậy, không thể nhắm vào tham sân si mà diệt.
3) Trí tuệ của Phật đạo khác và giống suy nghĩ của người đời ở những điểm căn bản nào ??? Chuyển thức thành trí là chuyển điều gì ??? Đề nghị giải thích và cho ví dụ để làm sáng tỏ hai câu hỏi trên !!!
Trả Lời:
Theo con nhận thấy, trí tuệ trong Phật đạo khác với nghĩ suy ở người đời ở hai điểm căn bản, đó là tính chất và xu hướng hành động.
Về hình thức thì có giống nhau, nhưng tính chất bên trong là hoàn toàn sai biệt. Trí tuệ thiên về trực nhận bản chất của vấn đề, sau mới nghĩ suy về vấn đề đó. Tức vị ấy thấu suốt bản chất của sự vật sự việc trước, sau mới nghĩ suy tìm giải pháp, giải quyết vấn đề. Vì thấu suốt nên khi một pháp được thành tựu tâm ý cũng theo pháp mà tự xả, không sanh ra các dị luận như thế gian pháp.
Người đời cũng nghĩ suy, nhưng đi theo hướng ngược lại, tức bị các giả tướng làm cho điên đảo, xoay vần trong quan niệm, nên không thấy được thật tướng của các pháp. Vì không thấy được thiệt tướng của các pháp, nên giải quyết vấn đề không rốt ráo, lại thường sanh các dị pháp và không thể tự xả. Đây là chỗ khác biệt cơ bản về tính chất của nghĩ suy giữa người mê với người trí.
Ví dụ cả hai người đồng quan sát một bức tranh. Sau khi quan sát, người đời thường chạy theo các quan điểm nghệ thuật, hay quan niệm đẹp xấu thế gian, rồi sanh ra các pháp “so đo, tốt xấu…”, cảnh trong tranh phải như thế này hay như thế khác…đây là hiện tượng sanh pháp, do bị các thọ giả tướng bên ngoài làm cho điên đảo nhận thức, làm cho tâm thức không được an vui và giải thoát. Vì khi chấp trước các tướng, mê tâm sẽ hiện, trạng thái lo lắng, bất an cũng vì thế mà xuất hiện theo, đây là trạng thái phiền nơi nhận thức. Đến khi có một ai đó không cùng quan điểm với mình, chê bai điều mình tâm đắc, lúc bấy giờ não tâm xuất hiện, biểu hiện giận dữ, chán ghét…làm cho tâm thức trùng xuống…Phiền não là tâm chúng sanh.
Người trí trực nhận một cách thấu thoát, đây chỉ là bức tranh và dừng lại trong trực nhận. Không như thế nào hết…!!! Theo con, đây là điểm khác biệt cơ bản về tính chất trong suy nghĩ của người Trí và người đời.
Về xu hướng hành động thì người có Trí tuệ trong Phật Đạo, khi nghĩ suy luôn được an lạc và giải thoát, thường mang đến điều an vui cho mình và cho người, không có bóng dáng phiền não khổ, ngã, kiến chấp, đấu tranh…
Khác biệt người Trí, khi người đời khi suy nghĩ một việc gì, thường kèm theo tình cảm riêng tư của vị ấy. Chính vì điều đó nên tâm thức vị ấy luôn bị cột trói và phiền não.
Ví dụ khi thương hoặc thích một điều gì, thường sanh tâm chiếm hữu điều đó thuộc về mình…đây là một trong nhưng yếu tố tình cảm của người đời thường thấy trong hành vi nhận thức về sự việc.
Theo con, để chuyển thức thành trí, vị tu hành phải thay đổi nhận thức ngay nơi hiện tại, không mê theo thấy nghe hay biết mà “sanh tâm sanh pháp”, và đây cũng là hai niệm xứ cơ bản giúp người mau chóng Giác Ngộ. Chỉ những ai Giác Ngộ được như vậy mới mong “chuyển thức thành Trí” trong Phật Đạo. Đây là đạo lộ duy nhất giúp người dứt khổ và giải thoát, ngoài đạo lộ này không có con đường nào có thể giúp vị tu hành đoạn tận được khổ đau.
Trên đây là những hiểu biết của con. Kính Thầy chỉ dạy thêm cho con!!!
Con chúc Thầy thật nhiều sức khỏe. Kính Thầy trụ thế dài lâu nơi thế gian, cho HĐTM chúng con được hưởng nhiều lợi ích!!!
Con, Lý Thiện Huệ
2. Bài viết của Lý Lục Vũ
Kính bạch Thầy !!! Kính HĐTM Lý Gia !!!
Lời đầu tiên cho con được sám hối trước Thầy và HĐTM Lý Gia bởi tâm vô ngại của con chưa thành tựu, là một SH của nhiều SĐ mà quá tự ti không dám tham gia trò chơi Trí Tuệ và hỏi đáp trên zoom. Con xin hứa: Từ nay, con sẽ tinh tấn nhiều hơn!!!
Sau đây con xin tập trả lời ba câu hỏi theo kiến giải của con như sau:
Hỏi:
1) Vì sao khi tuyên thuyết Diệu Pháp Liên Hoa, 5000 người mắc lỗi tăng thượng mạn (chưa chứng nói chứng) bỏ về ??? Giả sử, 5000 người ấy không bỏ về, ở lại để nghe Phật thuyết pháp, họ có lãnh hội được gì không ??? Vì sao được, vì sao không ??? Xin giải thích cụ thể và cho ví dụ minh hoạ !!!
Trả Lời:
Đại sự nhân duyên Phật ra đời là để: “Khai – Thị –
Ngộ – Nhập Phật tri kiến cho chúng sanh”. (Phật tri kiến là những thấy biết như Phật).
Muốn lãnh hội được “Tri kiến Phật” điều kiện tâm thức phải vô lậu: Thanh Văn chứng A La Hán, Duyên Giác chứng Bích Chi Phật, Bồ Tát chứng Diệt Đế. Nói chung để lãnh hội được Phật tri kiến (hay Pháp Hoa Tri Kiến) điều kiện cần và đủ là phải Hết khổ, dứt Tập và chứng Diệt. Vì thế trước khi thuyết Diệu Pháp Liên Hoa, phải dời trời người đi nơi khác, tức phàm tâm hay hữu lậu tâm phải được tịch diệt…Vì rằng, những tâm này sẽ không thể tiếp nhận được Phật tri kiến.
Ngũ tổ cũng dạy: “Bất thức bổn Tâm học Pháp vô ích”. Trong số đó 5000 người mắc lỗi tăng thượng mạn chưa chứng nói chứng, phải bỏ ra về. Vì cảnh giới xuất thế là cảnh giới Tâm vắng lặng tịch tĩnh không còn suy lường, đúng sai , đẹp xấu, hơn thua… là thứ tâm bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm…không còn nhị nguyên đối đãi. Tâm vô lậu mới có thể tiếp nhận được Phật Tri Kiến. Vì thế, Bát Chánh Đạo mới được gọi là: “Tu Đạo Vị”.
Giả sử, 5000 người ấy không bỏ về, ở lại để nghe Phật thuyết pháp, họ có lãnh hội được gì không ??? Vì sao được, vì sao không ??? Xin giải thích cụ thể và cho ví dụ minh hoạ !!!
Theo con, giả sử 5000 vị ấy không bỏ về, ở lại để nghe Phật thuyết pháp, nhất định các vị ấy, không lãnh hội được giáo Pháp của Phật !!!
Vì Pháp Hoa là cảnh giới xuất thế, cảnh giới trí tuệ, chỉ dành riêng cho những nguồn tâm vô lậu, người đại trí…cho nên những người nào còn tiểu tâm, hữu lậu tâm…không thể lãnh hội được pháp vi diệu của Phật. Có nghĩa, khi tâm và trí không cùng tầng số giữa người nghe và người thuyết, nếu ngồi lại nghe chỉ thêm phiền não, tâm trí hỗn loạn, rơi vào hầm hố, chẳng có lợi ích gì!
Ví dụ:
-Một học sinh Tiểu học vào nhầm phòng của sinh viên đại học, nếu có ngồi nghe chẳng hiểu biết gì.
– Cá không thể hiểu chuyện gì trên mặt đất mà rùa trải qua kể lại cho cá nghe.
– Vua Tự Đức và các đại thần không tin có xe hai bánh mà chạy được, bóng đèn chốc ngược mà vẫn sáng, khi nghe Nguyễn Trường Tộ đi Tây về kể lại.
Hỏi:
2) Trong hai nhóm kiết sử là độn sử (lỗi hành vi) và lợi sử (lỗi nhận thức)… Mọi người đều biết, người có được giác ngộ là nhờ thay đổi nhận thức như pháp, từ đó hành vi thay đổi theo… Vì thế tham, sân, si muội lược cho đến chấm dứt !!! Nếu một người không học tập để thay đổi nhận thức, người ấy cứ nhắm thẳng tham, sân, si mà tiêu diệt, hành động như thế có hợp lí không ??? Và kết quả cao nhất của hành động này là gì ??? Đề nghị giải thích và cho ví dụ !!!
Trả Lời:
Người có được giác ngộ là nhờ thay đổi nhận thức như pháp, từ đó hành vi thay đổi theo… Vì thế tham, sân, si muội lược cho đến chấm dứt !!!
Nếu một người không học tập để thay đổi nhận thức, người ấy cứ nhắm thẳng tham, sân, si mà tiêu diệt, hành động như thế là không hợp lí !!!
Do không học tập, nên không biết được lỗi nào là lỗi hành vi, lỗi nào là lỗi nhận thức. Sở dĩ có được hành vi đúng, hành vi tốt đẹp, hành vi vô lậu… là nhờ có nhận thức đúng, nhận thức tốt đẹp, nhận thức được thế nào là vô lậu…từ đó nó là Đế của nhau, thúc đẩy nhau phát triển.
Mọi pháp suy đoán dẫn đến hiểu biết sai lệch, khi hiểu biết sai lệch cho ra mục tiêu, đối tượng tiêu diệt sai. Chúng ta biết rằng tham, sân, si chỉ là hiệu ứng của ba duyên hoà hiệp, nó chính là bóng dáng của nghiệp thức (thức mê) khi căn xúc đối với trần. Vì thế tham, sân, si không thật, là mộng huyễn… Đã là không thật thì làm sao diệt???. giống như không thể no bụng khi ăn cơm trong mộng, hay quét sạch bóng cây.
Để giải quyết vấn đề này, khi căn tiếp xúc trần ta không cho thức mê chen vào. Móc xích căn – trần – thức bị bẻ gãy, từ đó nhận thức (hiểu biết) thay đổi, hiểu biết thay đổi thì hành vi cũng thay đổi, nên tham, sân, si muội lược (mỏng nhẹ) cho đến chấm dứt.
Giả sử nếu một người không học tập để thay đổi nhận thức, mà cứ nhắm thẳng vào tham, sân, si tiêu diệt, thì kết quả: Không thành tựu được gì cả !!!
Giống như:
– Khi lấy lửa để dập lửa thì lửa càng cháy to.
– Khi quét, lau, chùi… một cái bóng thì bóng cũ không mất, lại còn hiện ra thêm bóng mới!!!
– Một anh cán bộ đang nhận tiền vì tham, thì không thể gọi điện thoại báo công an hoặc cơ quan chức năng rằng tôi đang nhận tiền phi pháp…!
Hỏi:
3a) Trí tuệ của Phật đạo khác và giống suy nghĩ của người đời ở những điểm căn bản nào ???
Trả lời:
*Trí tuệ của Phật đạo và nghĩ suy của người đời: cũng giống, cũng không giống:
A. Điểm giống nhau:
Trí tuệ của Phật đạo và suy nghĩ của người đời cùng chung là nghĩ suy (tư duy), tức là có trí tuệ hay không trí tuệ (người đời) cũng phải nghĩ suy, nghĩ suy không mất.
B. Điểm khác nhau:
Người giác ngộ:
– Trí tuệ suy nghĩ mang tính trung thực, không cực đoan, không luyến ái…
– Trí tuệ suy nghĩ một cách rốt ráo, tường tận minh bạch, không có chủ kiến…
– Trí tuệ thông qua trực nhận…
– Trí tuệ suy nghĩ hay phân tích một sự việc, một vấn đề thấu tình đạt lí…
– Kết luận trước, suy nghĩ sau
– Là những hiểu biết chắc thật do quá trình thực chứng.
– Sản phẩm của trí tuệ là Trí…v.v…
Người đời:
– Suy nghĩ người đời mang nặng tình cảm, phán xét và cực đoan…
– Suy nghĩ người đời không tường tận, không minh bạch, còn chủ kiến…
– Suy nghĩ người đời thông qua suy lường…
– Suy nghĩ người đời là phân tích một sự việc, một vấn đề thường mang tính chủ quan…
– Suy nghĩ trước, kết luận sau.
-Là những hiểu biết trong ba cõi.
– Sản phẩm của người đời là Thức.v.v…
Trên đây là một phần sơ lược các điểm giống và khác nhau giữa trí tuệ trong Phật đạo và suy nghĩ của người đời.
3b) Chuyển thức thành trí là chuyển điều gì ??? Đề nghị giải thích và cho ví dụ để làm sáng tỏ hai câu hỏi trên !!!
Trả lời:
Chuyển thức thành trí: Là chuyển phần che mờ, là hiện tượng bên ngoài như tâm hư vọng, như đám mây che mặt trời, chứ không thể chuyển bản chất (bổn tâm), (ánh sáng mặt trời).
Khi tâm còn hữu lậu thì mọi thấy, biết còn mê nơi ba cõi đó là thấy biết của Thức (mê).
Khi tâm đã chứng Diệt – vô lậu mọi thấy biết thanh tịnh, trực nhận.. đó là thấy biết của TRí!
Tóm lại:
Khi mê ý căn bị che mờ nên Thức hiện.
Khi giác ngộ ý căn trở về bổn lai thanh tịnh, sáng suốt…là trực nhận… là Trí.
Chuyển thức thành trí là chuyển cái mê nơi nhận thức, khi cái mê không còn, chính là Trí.
Ví dụ: Ngọn núi này To, viên sỏi này Nhỏ, bức tranh này Đẹp, tấm hình này Xấu, bản nhạc kia Hay, lời nói này Đúng, việc làm này Sai… To Nhỏ, Đẹp Xấu, Hay Dỡ, Đúng Sai… chỉ là những quan niệm, quan điểm… khi ta không đặt quan niệm, quan điểm… nơi thấy, nghe, hay, biết, thì thấy nghe hay biết tự thanh tịnh tự rỗng rang…
Ta có thể kết luận: Thấy biết dựa trên quan niệm, quan điểm là Thức!
Thấy biết thanh tịnh, rỗng rang (bất cấu bất Tịnh, bất tăng bất giảm) là Trí.
Trên đây là kiến giải của Con, kính xin Thầy từ bi dạy bảo…
Con, Lý Lục Vũ.
3. Bài viết của Lý Thái Đăng
Kính Thầy !!!
Kính thưa các HĐTM Lý Gia !!!
Con xin trả lời các câu hỏi TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ – 06/2020.
1) Vì sao khi tuyên thuyết Diệu Pháp Liên Hoa, 5000 người mắc lỗi tăng thượng mạn (chưa chứng nói chứng) bỏ về ??? Giả sử, 5000 người ấy không bỏ về, ở lại để nghe Phật thuyết pháp, họ có lãnh hội được gì không ??? Vì sao được, vì sao không ??? Xin giải thích cụ thể và cho ví dụ minh hoạ !!!
Trả lời:
Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật tuyên thuyết: “Đại sự nhân duyên của Phật ra đời là để khai thị ngộ nhập Phật tri kiến cho chúng sanh”!!!
Đây có thể được coi là tuyên ngôn của Phật đạo, định hướng của Phật Giáo, triết lý của Phật pháp… mở ra đường lối giáo dục thay đổi nhận thức, làm cơ sở nền móng cho việc xây dựng Quốc Độ Phật với nền văn hóa vô lậu trên khắp thế gian này.
Mục tiêu đào tạo hướng đến là “Phật tri kiến” hay thấy biết Tông thông và Thuyết thông như Phật!
Kỹ thuật hay cách thức đào tạo có bốn tầng bậc là “khai, thị, ngộ, nhập”!
Người đứng đầu nền giáo dục là Phật! Trợ giảng các môn học là các vị Bồ tát (đạt chuẩn)!
Người bắt đầu được tuyển vào giai đoạn dự bị “Đạo đế” là chúng sanh… với đặc tính là nhị nguyên phân biệt (phải – trái, đúng – sai, hay – dở, được – mất, yêu – ghét, giận – thương…) và qua ba cấp học dự bị (khổ đế, tập đế, diệt đế tương đương với 29 môn học) người học được giải quyết dứt sạch phàm phu tánh… cho ra không tâm, không pháp, không ngã… Lúc này người học được coi như đủ tiêu chuẩn, chính thức nhập cấp Đạo đế để học bát chánh đạo… và được Phật trực tiếp khai thị ngộ nhập Phật tri kiến…nhằm thành tựu trí tuệ và được thẩm định qua hai tiêu chí Tông thông và Thuyết thông.
Hệ thống giáo dục Phật đạo là Tứ Đế triển khai thành 37 Phẩm! Đây là chương trình khung của giáo dục đào tạo rất rõ ràng, cụ thể!
Tạm chia thành ba tầng bậc là Thế gian, Xuất thế gian và Xuất thế gian thượng thượng để phù hợp với mô hình giáo dục ba loại đối tượng.
– Đối với học sinh, sinh viên gọi là 37 phẩm trợ đạo;
– Với giáo viên gọi là 37 phẩm trợ Bồ đề;
– Với các vị làm công hạnh (tu bồ tát hạnh, hành bồ tát đạo) gọi là 37 phẩm Đạo quả.
Vì vậy đối với người học cần thấu tỏ, biết rõ bản thân bắt đầu học nội dung gì, ở lớp nào, cấp học nào để vào đúng cấp, ngồi đúng lớp, xếp đúng chỗ…
Đối với tầng bậc đầu tiên 37 phẩm trợ đạo (thế gian), chương trình dành cho (học sinh, sinh viên) lại chia làm ba giai đoạn tư lương vị, kiến đạo vị và tu đạo vị, để cho người học biết rõ nội dung, quy tắc học tập, tiêu chuẩn lên lớp… một cách chi tiết, rõ ràng…
Tránh sự ngộ nhận về năng lực, trình độ mà đứng trật chỗ (đang đi học mà lên bục xưng thầy thuyết giảng);
Tránh ngồi nhầm lớp (như đang học tứ chánh cần, dọn cỏ thiện ác chưa xong, chưa nhất tâm mà đã bón phân ngũ căn, ngũ lực, trạch pháp giác chi);
Tránh vào nhầm cấp (chưa qua khổ đế, tập đế, diệt đế mà đã đòi học đạo đế)…
Hệ quả của sự nhầm lẫn tai hại như trên không những tốn công vô ích mà còn xảy ra hệ lụy làm người học chán nản, phiền não, điên đảo… Nhiều người học đạo cách này từ khi còn trẻ, mãi cho đến tuổi già mà vẫn chưa biết lấy gì để tự thẩm định, mình chính thức đang học cấp nào, lớp nào, đã hoàn thành môn học nào trong 37 môn học… do vậy đã than vãn trên mạng internet là “mèo vẫn hoàn mèo”, phiền não đeo bám… chỉ khác là “mèo già hóa cáo”!
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thuộc cấp học Đạo đế! Giảng viên trực tiếp là Phật! Học viên đủ chuẩn để vào học đối với Bồ tát chứng Diệt đế; đối với Thanh văn chứng quả A La Hán; đối với Duyên giác chứng quả Bích Chi Phật. Các thành phần như “Trời, người” phải dời đi chỗ khác…
Do vậy mà khi tuyên thuyết Diệu Pháp Liên Hoa, 5000 người mắc lỗi tăng thượng mạn (chưa chứng nói chứng) bỏ về vì lý do vào nhầm cấp học!.
Giả sử, 5000 người ấy không bỏ về, ở lại để nghe Phật thuyết pháp, họ cũng chẳng có lợi ích gì vì chẳng thể thâm nhập cảnh giới Phật tri kiến… Thậm chí còn phát sanh tà kiến, bởi Phật dạy “Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh văn cùng Duyên giác không thể đến được”. Mặc dù ngài Xá Lợi Phất thưa thỉnh nhiều lần xin Phật cho các thành phần (chưa ra khỏi ba cõi) được nghe Diệu Pháp Liên Hoa… Nhưng Phật đã xác quyết “Thôi thôi! Chẳng nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi ngờ”… “Nếu nói việc đó thì tất cả trong đời, trời, người, A Tu La đều sẽ kinh nghi, Tỳ kheo tăng thượng mạn sẽ phải sa vào hầm lớn”. (Trích Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phẩm “Phương Tiện” thứ hai – HT Thích Trí Tịnh dịch).
2) Trong hai nhóm kiết sử là độn sử (lỗi hành vi) và lợi sử (lỗi nhận thức)… Mọi người đều biết, người có được giác ngộ là nhờ thay đổi nhận thức như pháp, từ đó hành vi thay đổi theo… Vì thế tham, sân, si muội lược cho đến chấm dứt !!! Nếu một người không học tập để thay đổi nhận thức, người ấy cứ nhắm thẳng tham, sân, si mà tiêu diệt, hành động như thế có hợp lí không ??? Và kết quả cao nhất của hành động này là gì ??? Đề nghị giải thích và cho ví dụ !!!
Trả lời:
Đọc câu hỏi của Thầy con lại nhớ cái thời ngây thơ, ngờ nghệch (trước khi vào Lý gia) khi nghe câu khẩu hiệu “Diệt ngã xả tâm” liền lao vào thực hành như “nam châm hút sắt” quyết chiến ngày đêm… Nhưng kết quả thì tham sân si chẳng trầy vi, tróc vảy mà còn hẫy hừng hơn. Đúng là “Nhiệt tình cộng với cục ngu, Tam độc phát tác cho dù lên non”! Và kết quả cao nhất của hành động này là chúng sanh trung thành nơi ba cõi với cảnh giới điên đảo, phiền não, ảo tưởng, ngứa miệng, thích phán xét những điều trong ngũ ấm ma hiện ra!!!
Nay được vào Lý gia thật là hạnh phúc, huynh đệ Lý gia chỉ cần nghe qua khẩu hiệu “Diệt ngã xả tâm” thì người có Giác lực đã biết ngay con đường sai; người có Huệ lực còn biết rõ con đường nào đưa đến vô lậu, con đường nào đưa đến hữu lậu; còn người đã phát sanh trí tuệ trực nhận vấn đề, gọi là Bát nhã lực thì có thể thắp sáng niềm tin, lan tỏa yêu thương, hoằng dương Chánh pháp…
Thầy dạy: “Nếu ta vẫn cứ mê, không giác ngộ để thấu suốt bản chất của tâm và pháp, cứ mãi “hướng ngoại tìm cầu”… Cho dù ta từ bỏ thế giới này, lên tận rừng sâu núi thẳm, cửa đóng then cài, không tiếp xúc thế giới nhân sinh thì, với những tâm thức như vậy, thế gian đạo cũng theo người đó lên tận rừng sâu núi thẳm…Cho dù cửa đóng then cài, không tiếp xúc thế giới nhân sinh thì, thế gian đạo cũng theo người đó mà vào tận buồng kín, bao phủ lấy cõi lòng người đó !!!”(Lý Tứ)
Giác ngộ, giải thoát và trí tuệ là khẩu hiệu hành động đang ứng dụng thành công trong Lý gia và được Thầy chỉ rõ “Có được giác ngộ là nhờ thay đổi nhận thức như pháp, từ đó hành vi thay đổi theo… Vì thế tham, sân, si muội lược cho đến chấm dứt !!!”. Nhưng nhiều người tu hành, không nhận ra chân lý đó để thay đổi nhận thức, do vậy mà hiểu sai, ứng dụng sai và dẫn đến kết quả không như mong muốn.
Đối với Lý gia, khi đề ra mục tiêu là hết tham sân si…Huynh đệ Lý gia được Thầy chỉ dạy đến nơi đến chốn để thay đổi nhận thức, do vậy mà học trò nắm rõ nguyên lý “Tam độc” từ đâu mà sanh, trụ vào đâu mà trưởng, biến tướng như thế nào, làm sao mà tịch diệt…
Theo lời Thầy chỉ dạy, con nhận ra rằng: “Tam độc” không thật có, nó chỉ là hiệu ứng do ba duyên (trần, căn, thức) hòa hợp… Chỉ cần tác động vào duyên “thức” làm mất đi sự ô nhiễm của thức thì ba duyên không còn hòa hợp… trả lại sự sáng suốt ban đầu (trần, căn, trí), nghĩa là người tu không phải thay đổi thế giới, hay bưng tai bịt mắt, yểm ly các căn… mà chỉ cần thay đổi nhận thức, thái độ đón nhận sự việc (khi xúc, thọ, ái, thủ) …, gọi là “minh xúc”. Để thấu tỏ kỹ thuật minh xúc cần ứng dụng bài Kinh Căn Tu Tập và Tam vô lậu học!
Tiếp đó, để thay đổi như pháp về nhận thức, huynh đệ Lý gia còn được trang bị phương pháp tư duy thấu suốt nguồn cơn, không chỉ dứt “Tam độc” mà giải quyết luôn cả mười kiết sử, bao gồm năm độn sử: Tham, sân, si, mạn, nghi (lỗi hành vi) và năm lợi sử: Thân kiến, biên kiến, thủ kiến, giới cấm thủ kiến và tà kiến (lỗi nhận thức), gọi là giải quyết nguồn tâm!.
Quay về giải quyết nguồn tâm trong một hữu tình, có thể ví Tánh Giác (cái biết bản nhiên) của hữu tình như tia nắng mặt trời; Khi có các thứ “KIẾN” (thân kiến, biên kiến, thủ kiến, giới cấm thủ kiến và tà kiến) xuất hiện ví như cái cây (hay đám mây) thì hiệu ứng vùng tối (hay bóng râm) xảy ra, gọi là (tham, sân, si, mạn, nghi).
Nếu một người không học tập để thay đổi nhận thức, người ấy cứ nhắm thẳng tham, sân, si mà tiêu diệt, hành động (diệt bóng cây…) như thế gọi là vô lý hoàn toàn, gọi là tu hành kiểu “BA TRỢN”, bởi vì:
“Phật đạo là đạo trí tuệ, con đường từ thế gian đến xuất thế là con đường của trí tuệ…Mọi thứ đều bắt nguồn từ nhận thức !!! Mê là nhận thức bị mê !!! Ngộ (hay giác ngộ) là nhận thức thấu suốt được bản chất của tâm và pháp !!!…”(Lý Tứ)
Mê tạo ta vùng tối tâm thức không thật có, như mộng huyễn bào ảnh, do đó không ai lại có thể đi diệt giấc mơ, đi quét vùng tối (hay bóng cây) bao giờ???…
Mọi hành vi “Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt” đều là bệnh, không khả thi… Chỉ có giác ngộ mới giải hết nguồn mê!!! Người Giác ngộ như người ngủ tỉnh giấc hết mê, hay thắp sáng ngọn đèn trong tâm thức thì giấc mơ tự tan, bóng tối tự mất, chẳng cần phải diệt…
Còn tu hành để diệt ngã ư? Không thể nào! Bởi Thầy Lý Tứ chỉ rõ “Tu hành không thể diệt được ngã bởi tu hành chính là ngã” và người xưa cũng đã cảnh báo “Tác ý tìm chơn, chơn ẩn mất; Tận tâm diệt vọng, vọng càng sanh”.
Tóm lại: Trong ba duyên: Tia nắng (ví cho tánh giác); Đám mây, cái cây (ví cho các thứ “KIẾN”); Hiệu ứng vùng tối, bóng râm (ví cho các thứ TÂM); ta chỉ cần giác ngộ “Ngoài không mê “KIẾN” sanh TÂM; trong không còn niệm “CHẤP” sanh NGÃ, thì Tia nắng ngập tràn gọi là “Bổn lai diện mục” NIẾT BÀN hiện ra!!!”.
3) Trí tuệ của Phật đạo khác và giống suy nghĩ của người đời ở những điểm căn bản nào ??? Chuyển thức thành trí là chuyển điều gì ??? Đề nghị giải thích và cho ví dụ để làm sáng tỏ hai câu hỏi trên !!!
Trả lời:
Để so sánh “Trí tuệ của Phật đạo” khác và giống “suy nghĩ của người đời”, trước hết ta căn cứ vào những cơ sở lý luận căn bản của xuất thế gian và thế gian!
Những điểm căn bản “Trí tuệ của Phật đạo”, được Thầy Lý Tứ giảng dạy như sau:
“Trí tuệ trong Phật đạo, là loại hiểu biết chỉ có từ nhân giác ngộ! Hay nói khác hơn, đây là loại hiểu biết do giác ngộ mà thành, hiểu biết này thuộc về đạo xuất thế!”
“Một người được coi là có Trí Tuệ trong Phật Đạo, là người biết hướng những người khác, như pháp từng bước đạt được mục tiêu cuối cùng của Phật Đạo”
“Cái được gọi là trí tuệ của Phật đạo không giống đem tri thức thế gian hiểu về Phật đạo, mà nó là những hiểu biết chắc thật hình thành từ quá trình thực chứng!”
“Về hai chữ trí tuệ trong Phật đạo, ta có thể tóm tắt như sau: Trí: Là những thấy biết chắc thật từ sự giác ngộ chắc thật! Tuệ: Là sự phát sáng, là năng lực giáo hoá, là sức ảnh hưởng như pháp đến các hữu tình khác! ”(Lý Tứ).
Trong nhãn quan của người tu hành thì mọi hoạt động về ý thức của (người chưa giác ngộ) được gọi là “suy nghĩ của người đời”.
Người đời (thông thường) có đủ sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn có sáu đối tượng tương ưng để nhận biết là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
Trong đó, Ý căn có những tính chất đặc biệt, không hiện bên ngoài, vô hình vô tướng… và đối tượng nhận biết ban đầu của ý căn là “tánh biết” gọi là trực nhận, liễu tri, là tánh giác, là tự nhiên tánh, là “bổn lai diện mục”, là cái biết sáng suốt, không bị nhiễn ô…v…v.
Khi con người được sinh ra, nghiệp người xuất hiện, cái biết ban đầu bị nhiễm ô bởi Thức nghiệp gọi là Ý thức. Lớn lên người này lao động, học tập, tích lũy kiến thức của người đời mà Hiện thức tiếp tục nhiễm ô che mờ (tánh biết) và được Lưu chú cất giữ vào A Lai Da thức làm chủng tử Nghiệp thức cho đời sau…
Do vậy “suy nghĩ của người đời” không rời nhiễm ô, phân biệt, lấy cái bị biết để nghĩ suy và cho ra những quan điểm, quan niệm… gọi là sanh pháp, “mê pháp mà sanh tâm, trụ vào tâm pháp mà sinh ngã, mê lầm (tâm, pháp, ngã) mà sanh phiền não khổ đau, che mờ trí tuệ”.
“Suy nghĩ của người đời” và “Trí tuệ của Phật đạo” là hai phương pháp tư duy của hai cảnh giới thế gian và xuất thế gian hoàn toàn khác biệt… Nhưng “Phật pháp tại thế gian; chẳng lìa thế gian giác; lìa thế tìm Bồ đề; cũng như tìm sừng thỏ”(Vô Tướng Tụng) vì thế việc so sánh để tìm ra những điểm căn bản “Giống và Khác” là việc làm quan trọng và cần thiết đối với các vị Bồ Tát thực hiện hạnh nguyện cứu độ chúng sanh.
Căn cứ vào hạnh nguyện Bồ tát… ta có thể chọn ba tiêu chí căn bản để so sánh đó là “Mục tiêu tư duy; Phương pháp tư duy và Kết quả tư duy”.
Mục tiêu tư duy của “Trí tuệ của Phật đạo” là làm thay đổi nhận thức hay nhãn lực của người tu hành từ Nhục nhãn, Thiên nhãn, Pháp nhãn, Huệ nhãn cho đến Phật nhãn.
Mục tiêu “Suy nghĩ của người đời” là “Không ngừng nâng cao và thỏa mãn đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần… cho con người sống trong ba cõi, là cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc…
Điểm giống của hai mục tiêu là cùng tác động vào đối tượng “con người”; cùng điểm xuất phát là “nhục nhãn”; còn điểm cuối của hai mục tiêu hướng đến thì hoàn toàn khác nhau.
Phương pháp tư duy của “Trí tuệ của Phật đạo” là “Trực nhận” vấn đề trước, sau đó chọn văn tự ngữ ngôn phù hợp để hiển bày sự thấy biết… gọi là chơn lý.
Còn phương pháp “Suy nghĩ của người đời” dựa trên sự vòng quay luân hồi của “Ba duyên Trần, Căn, Thức hòa hợp” gọi là “Từ trực quan sinh động (trần), qua công cụ (các căn) đến tư duy trừu tượng (thức). Từ tư duy trừu tượng (thức) trở về với thực tiễn (trần) để kiểm nghiệm, kết luận”. Thực tiễn được coi là người thầy của chơn lý.
Điểm giống nhau của hai phương pháp là đều lấy giáo dục để thay đổi nhận thức con người và hướng tới mục tiêu đã định…
Điểm khác biệt là cách thức, phương pháp giáo dục, hay kỹ thuật tác động vào quá trình nhận thức của con người để thay đổi hành vi của hai cách tư duy hoàn toàn trái ngược, đó là “Trí tuệ của Phật đạo” cho ra kết quả (trực nhận) trước, phân tích, giải thích và chọn ngôn ngữ hiển bày sau. Còn “Suy nghĩ của người đời” tư duy trừu tượng phân tích, giải thích trước, sau đó mới lấy thực tiễn ứng dụng làm “công cụ” kiểm chứng, chứng minh kết quả và cho ra “triết lý” của quá trình nhận thức, tư duy lý luận.
Trường hợp người giác ngộ (có nội minh) cần tư duy những vấn đề khác (ngoại minh) thì tư duy vẫn diễn ra như pháp nhờ các lực (giác lực, huệ lực, bát nhã lực, công đức lực) mà người tu hành không bị ái nhiễm hay thủ giữ kết quả làm ra do vậy mà Bồ tát tự tại hoạt dụng trong ba cõi như lời kinh dạy “pháp vô vong thất; tánh hằng tự xả…”
Kết quả tư duy “Trí tuệ của Phật đạo” cho ra Niết Bàn an vui, mãi vui cho đến tự tại. Bồ tát sống trong cõi dục mà không nhiễm dục, sống trong cõi sắc mà không mê mờ sắc, sống trong cõi vô sắc mà ung dung tự tại như con nhện đi lại trên tấm lưới giác ngộ của mình.
Còn “Suy nghĩ của người đời” thì cho ra các hiệu ứng của nghĩ suy, là sản phẩm của “Tư duy trừu tượng” nhằm thỏa mãn mục tiêu đề ra. Khi “Suy nghĩ của người đời” cho ra hiệu ứng nhằm thỏa mãn mong muốn tình cảm thì gọi là sanh tâm; hiệu ứng cho ra kết quả quan niệm, kết luận… thì gọi là sanh pháp; hiệu ứng mong muốn, thủ giữ tâm pháp làm đời sống thì sanh ngã. Tâm, Pháp, Ngã… Những thứ đó đều cho ra hệ quả phiền não, kiết sử, lậu hoặc gọi là nhân của khổ đế, tập đế… che mờ “Trí tuệ của Phật đạo”.
Từ sự so sánh trên, ta nhận ra rằng “Suy nghĩ của người đời” cho ra sản phẩm là “THỨC”; Còn “Trí tuệ của Phật đạo” cho ra sản phẩm là “TRÍ”. Do vậy chuyển thức thành trí là công nghệ xử lý, chuyển “Suy nghĩ của người đời” thành “Trí tuệ của Phật đạo”.
Phật dạy “Chúng sanh có Phật tánh”! Đại niết Bàn có tám tính chất căn bản hiện ra có thể nhận biết, là “Thường, Ngã, Lạc, Tịnh” gọi là Phật tánh! “Từ, Bi, Hỷ, Xả” là Phật tâm! Ai hiển bày được tám tính chất này gọi là Phật, là xuất thế, là Trí tuệ, là Thầy của trời người…vv; ví như Mặt trời!
Ai thủ giữ các món làm che mờ Phật tánh (“Suy nghĩ của người đời” cho ra tâm, pháp, ngã và hệ quả phiền não, kiết sử, lậu hoặc) gọi là vô minh, là không sáng suốt, là chúng sanh…vv; ví như Mây đen che nắng Mặt trời.
Thấu suốt được bản chất “Trí tuệ Phật đạo” (ví như mặt trời) là Thường bởi không sinh diệt, là Lạc bởi Niết bàn, là Ngã bởi làm nơi nương tựa, là Tịnh bởi thanh lương thượng diệu… Do vậy “Bản chất” của Phật tánh là không thể chuyển!
Còn các món làm che mờ Phật tánh ví như Mây đen che phủ bầu trời là vô thường biến hoại, do duyên mà hiệp, hết duyên hoàn không… “Mọi thứ đều bắt nguồn từ nhận thức !!! Mê là nhận thức bị mê !!! Ngộ (hay giác ngộ) là nhận thức thấu suốt được bản chất của tâm và pháp !!!…”(Lý Tứ). Tất cả “các món làm che mờ Phật tánh” chỉ là “Hiện tượng”, như Mây đen che nắng Mặt trời!
Như vậy ta nhận ra quy trình chuyển Thức thành Trí chỉ có thể chuyển trên “Hiện tượng” chứ không phải chuyển trên “Bản chất”.
Có thể ví Trí như ngọn đèn giác ngộ; Tuệ là sự phát sáng khi giúp người; Thức là vật cản, che chướng ánh sáng phát ra. Chuyển thức thành trí là lấy đi những sự che chướng ánh sáng mà không phải đi thay thế ngọn đèn khác.
Có thể ví “Trí tuệ Phật đạo” như gốc cây, “Suy nghĩ của người đời” như quảng cáo dán vào gốc cây. Chuyển thức thành trí là lột quảng cáo che chướng gốc cây mà không phải thay thế gốc cây.
Cũng có thể ví Trí như nước sạch đựng trong thùng, còn thức như lớp váng dầu che chướng nằm trên mặt nước. Chuyển thức thành trí chỉ là lấy đi váng dầu trên mặt nước mà không phải đổ nước đi.
Tóm lại: Thức tức Trí! Khi mê thì ý căn bị che mờ thức hiện, lấy thức làm đời sống gọi là trí thức, là “Suy nghĩ của người đời”; Khi giác ngộ thì ý căn trở về bổn lai thanh tịnh sáng suốt…là trực nhận, lấy trực nhận làm đời sống gọi là “Trí tuệ Phật đạo”… Cho đến khi đời sống người đó là trực nhận, trực nhận là đời sống người đó gọi là Chánh pháp vô dị biệt.
Con xin đảnh lễ Thầy ba lễ!!!
Con, Lý Thái Đăng
4. Bài viết của Lý Giác Thư
Kính Thầy !!!
Con xin đảnh lễ Thầy 3 lạy !!!
Kính HĐTM Lý Gia !!!
Con xin tham gia trả lời câu hỏi:
1) Vì sao khi tuyên thuyết Diệu Pháp Liên Hoa, 5000 người mắc lỗi tăng thượng mạn(chưa chứng nói chứng) bỏ về ??? Giả sử, 5000 người ấy không bỏ về, ở lại để nghe Phật thuyết pháp, họ có lãnh hội được gì không ??? Vì sao được, vì sao không ??? Xingiải thích cụ thể và cho ví dụ minh hoạ !!!
Trả lời:
Khi Đức Phật thuyết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cốt lõi của kinh này là khai thị Phật Tri Kiến cho Nhị Thừa khi đã chứng thánh quả A La Hán và Bồ Tát Quyền Thừa đã thành tựu hai vô ngã.
Cho nên trước khi tuyên thuyết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, kinh nói rằng, phải dời trời người đi nơi khác. Người, là dời những con người còn tâm phàm phu đối đãi của thế gian, tội phước, hơn thua, phải trái, đúng sai… Và Trời, là chỉ cho các vị tu hành tuy có đắc thiền định nhưng chưa giác ngộ đạo xuất thế.
Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phật dạy: “Đại sự nhân duyên của Phật ra đời là để khai thị ngộ nhập Phật Tri Kiến cho chúng sanh”. Có nghĩa rằng Phật ra đời chỉ một mục tiêu duy nhất là dạy người thành Phật. Tuy nhiên để dạy người thành Phật thì những thấy biết của Phật, một phàm phu không thể học được !!! Giống như một người mù không thể học màu sắc, càng không thể học hội họa được !!!
Giống như một người còn tâm tham thì khi dạy trí tuệ siêu việt, thì trí tuệ siêu việt đó cũng nhằm phục vụ cho tâm tham này, và kết quả đó không như Phật đạo mong muốn !!!
2) Trong hai nhóm kiết sử là độn sử (lỗi hành vi) và lợi sử (lỗi nhận thức)… Mọi người đều biết, người có được giác ngộ là nhờ thay đổi nhận thức như pháp, từ đó hành vi thay đổi theo… Vì thế tham, sân, si muội lược cho đến chấm dứt !!! Nếu một người không học tập để thay đổi nhận thức, người ấy cứ nhắm thẳng tham, sân, si mà tiêu diệt, hành động như thế có hợp lí không ??? Và kết quả cao nhất của hành động này là gì ??? Đề nghị giải thích và cho ví dụ !!!
Trả lời:
Trong Phật Đạo, tham, sân, si được coi là ba thứ độc và người tu hành nào cũng canh cánh trong lòng việc dứt bỏ ba thứ độc tham, sân, si này. Nhưng sở dĩ người tu hành chưa thể dứt được là bởi vì hiệu quả của việc tu hành chưa cao, thời gian chưa đủ và chưa giác ngộ !!!
Mọi người đều biết, người có được giác ngộ là nhờ thay đổi nhận thức như pháp, từ đó hành vi thay đổi theo… Vì thế tham, sân, si muội lược cho đến chấm dứt !!! Nếu một người không học tập để thay đổi nhận thức, người ấy cứ nhắm thẳng tham, sân, si mà tiêu diệt, hành động này hoàn toàn không hợp lý.
Vì sao không hợp lí? Vì tham, sân, si thuộc độn sử hay lỗi hành vi, tức nó chỉ là hệ quả của một nhận thức sai lầm, lâu ngày huân thành tập nhân trong tâm thức. Giống như bóng cây, khi đủ duyên cây sẽ hiện bóng, người ta không thể tiêu diệt bóng cây, một khi cái cây và các duyên hãy còn.
Tham sân si là quả đã thành, giả sử ta nhắm thẳng vào nó tiêu diệt, nếu có diệt được, khi đủ duyên quả ấy sẽ hiện lại, hành động này chẳng khác gì hình thức lấy đá đè cỏ. Hay người ta không thể tận diệt cành nhánh của một cái cây, khi gốc rễ của nó vẫn còn !!!
Vì thế không thể nhắm thẳng tham, sân, si mà tiêu diệt. Nếu người ấy cứ nhắm thẳng tham, sân, si mà tiêu diệt thì kết quả của hành động này là tham vẫn hoàn tham, si mê hoàn si mê và sân hận còn nguyên !!!… Đây cũng là lí do vì sao một Tu Đà Hoàn (sơ giác) không diệt ba kiết sử thuộc hành vi là tham, sân, si mà chỉ đoạn ba kiết sử thuộc nhận thức là thân kiến, giới cấm thủ và nghi !!!
3) Trí tuệ của Phật đạo khác và giống suy nghĩ của người đời ở những điểm căn bản nào ??? Chuyển thức thành trí là chuyển điều gì ??? Đề nghị giải thích và cho ví dụ để làm sáng tỏ hai câu hỏi trên !!!
Trả lời:
Trí tuệ của Phật đạo giống suy nghĩ của người đời là cùng một sự hiểu biết. Nhưng hai sự hiểu biết này lại là hai sự hai sự hiểu biết khác nhau rất xa:
– Suy nghĩ hay sự hiểu biết của người đời là sự hiểu biết của suy lường, suy hiểu và kinh nghiệm… Tức là sự hiểu biết này bị cột trói bởi tánh và tướng (tánh pháp và tướng pháp), có nghĩa sự hiểu biết này y theo tánh hoặc tướng mà nhận định.
Ví dụ ngươi đời thấy nước nhận định tánh của nó là mát, thấy bàn biết tướng đó là vuông hoặc tròn, sự hiểu biết này không biết mát hay vuông chỉ do duyên.
– Trí tuệ trong Phật đạo, là loại hiểu biết chỉ có từ nhân giác ngộ! Hay nói khác hơn, đây là loại hiểu biết do giác ngộ mà thành, hiểu biết này thuộc về đạo xuất thế!
Cái được gọi là trí tuệ của Phật đạo không giống đem tri thức thế gian hiểu về Phật đạo, mà nó là những hiểu biết chắc thật hình thành từ quá trình thực chứng !!!
Giống người nông dân, sau khi học kĩ thuật canh tác từ những nhà chuyên môn, biết kĩ thuật canh tác gọi là tri thức! Tri thức hay tri kiến trong Phật đạo là những hiểu biết chân chánh về đạo pháp, hiểu biết này chỉ thuần tuý là tri thức (tri kiến)!
Sau đó người nông dân đem những điều mình đã học, ứng dụng vào việc canh tác! Trong quá trình ứng dụng thực tế phát sinh những vấn đề mà lí thuyết không thể bao quát hết được!
Nhờ các phát sinh ấy, người nông dân nổ lực khắc phục! Cứ như vậy, ứng dụng lí thuyết, khắc phục các phát sinh, đến khi nào việc canh tác của người nông dân hoàn toàn như ý!
Với bao nhiêu thửa ruộng, với bao nhiêu công sức bỏ ra! Bây giờ người nông dân hoàn toàn nắm vững kĩ thuật canh tác, kết quả gieo trồng không còn bất kì sai số nào! Hiểu biết của người nông dân lúc này có thể đem ra trao đổi với những người nông dân khác một cách chắc thiệt! Lấy hiểu biết chắc thiệt của tự thân đem chia sẻ cho người, Phật đạo gọi là “tuệ”! Tuệ hay trí tuệ trong Phật đạo là thứ hiểu biết cụ thể thông qua quá trình thực chứng!
Về hai chữ trí tuệ trong Phật đạo, ta có thể tóm tắt như sau: “Trí: Là những thấy biết chắc thật từ sự giác ngộ chắc thật! Tuệ: Là sự phát sáng, là năng lực giáo hoá, là sức ảnh hưởng như pháp đến các hữu tình khác.Trí tuệ trong Phật đạo là như thế”!…Trích nguồn Lã Thị Hạ Đế !!!
Con người ta có tám hay chín thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức, a lại da thức và một thức là lưu chú thức. Nhưng thực tế nó chỉ là một thức, hay có một cái biết mà nó làm đến tám hay chín chức năng. Giống như một người làm tới tám hay chín công việc như thầy giáo, cha, chủ tịch hội nông dân…
Chuyển thức thành trí là chuyển điều gì ???….Tức là khi thức chạy vào các căn hay ở yên nơi chính nó, không để sự hiểu biết này làm mình mê muội, đừng chấp nhất vào nó thì gọi là chuyển thức thành trí !!!
Giai đoạn đầu tiên người ta chuyển năm thức trên thân hay gọi là “tiền ngũ thức”, là thức ở nơi con mắt (nhãn thức), nơi lỗ tai (nhĩ thức), lỗ mũi (tỷ thức), cái lưỡi (thiệt thức) và thức ở thân (thân thức). Khi nào ta chuyển được năm thức này thì đối trước thấy nghe, nếm ngửi và xúc chạm ta không mê mờ, không phân biệt, không sinh các quan niệm, gọi là“thành sở tác trí” !!!
Công việc thứ hai, chuyển thức thứ sáu là (ý thức)… Thức này ngày trước hay phân biệt, hơn thua đủ thứ, bây giờ người tu hành thay đổi nó, không mê nữa, thì thứ thứ sáu (ý thức) trở thành “diệu quan sát trí ”.
Sau khi (ý thức) trở thành “diệu quan sát trí”, bây giờ thức này không còn phân biệt, không còn mê nữa, thì thức thứ bảy là “mạt na thức”, là thức chấp thủ hay cái ngã gìn giữ sẽ tự dứt. Khi không còn phân biệt hơn thua, thì tự “mạt na thức” trở thành “bình đẳng tánh trí”. Tức là thấy nghe gì đều bình đẳng, không phân biệt cao thấp, tốt xấu !!!
Khi năm căn thân và ý thức cho tới “mạt na thức” không còn chấp, không còn sinh ngã, không còn phân biệt, không còn mê muội… Bây giờ mọi cảnh duyên diễn ra trước mặt như tấm gương sáng, soi rõ mọi vật gọi là “đại viên cảnh trí”. Tức là tâm bây giờ an lạc, sáng suốt, thanh tịnh và không hề lay động gọi là “đại viên cảnh trí” hay “đại viên tâm”, hoàn thành công việc chuyển thức thành trí.
– Khi tám thức chuyển thành bốn trí… Thức thứ chín là “lưu chú thức” không chuyển theo vì đây là thức phụ nó không có chức năng mê hay giác, cũng không bị ảnh hưởng bởi mê hoặc ngộ. Nó như dòng hải lưu âm thầm chảy dưới đáy biển mang các thứ trong biển từ nơi này đến nơi khác.
Giống như người thư ký của một Công ty lớn, chỉ làm công việc do ông chủ sai bảo, không thể quyết định chuyện thành bại của Công ty!!!
Vì thế .“Tu hành trong Phật đạo chính là công cuộc chuyển đổi thức thành trí. Muốn chuyển đổi thành công phải thấu suốt cái chuyển đổi và cái sắp được chuyển đổi, càng thấu suốt việc chuyển đổi càng xảy ra dễ dàng. Như người ta dùng sức lao động để đổi nghèo thành giàu, một người khiếm khuyết trí tuệ, không nhận thức được sự khác nhau giữa giàu và nghèo, nhất định chẳng bao giờ có một sự chuyển đổi tích cực, đúng mực, để đưa đến thành công trong con người đó”. Trích Anh Lạc Luận – Tác giả Lý Tứ.
Thưa Thầy, trên đây là phần trả lời của con, nếu có gì sai sót xin Thầy chỉ dạy thêm.
Con xin thành tâm đảnh lễ Thầy, lạy tạ thâm ân giáo dưỡng của Thầy vô lượng lễ. Kính chúc Thầy nhiều sức khoẻ, trụ thế thật lâu!!!
Kính chúc HĐTM LÝ GIA luôn an lạc, tinh tấn trong chánh pháp của Như Lai được Thầy dẫn dắt !!!
Con, Lý Giác Thư
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?






