Bài Viết Của Lý Ngân Thoa Khi Đọc Và Cảm Nhận Về Sách Tâm Pháp
Cái ấn tượng đầu tiên trong con, đây là một cuốn Phật Pháp lạ đời, không kinh viện, không bác học, không một hình tượng đặc trưng nào về Phật Giáo giống như thế gian mô tả.
Con kính chào Thầy.
Đệ tử chẳng biết nói gì thêm trước sự kì diệu, nhiệm màu cùa Tâm Pháp mang lại. Con cảm ơn Thầy sâu sắc. Con xin viết chút cảm nhận của mình gửi đến Thầy.
Vì quá xúc động, con viết hơi dài nên con viết thành một văn bản gửi đến Thầy. Văn ngôn còn nhiều hạn chế, nên con mong thầy thông cảm. Thêm nữa, con có làm hai ảnh cho lần xúc động này.
Con chúc thầy nhiều sức khoẻ!
Con kính chào thầy ạ !
Hôm nay, lạ lắm thầy ạ. Cả tuần nay, con cứ sáng cầm Tâm Pháp lên cơ quan, tối lại cầm Tâm Pháp về nhà. Trước đó, con đã đọc Tâm Pháp rồi. Kì lạ ở chỗ, lần nào đọc, cũng vẫn câu từ đó, mà lại cảm thấy như là lần đầu mới đọc.
Lần về Việt Nam, con được thầy tặng sách, số lượng chắc cũng bằng một tủ sách cá nhân. Ấy vậy mà, con vẫn chưa lật cuốn nào ngoài cuốn Tâm Pháp, mặc dù đã đọc xong nó, nhưng rồi đọc lại, đọc lại, mỗi lần đọc cảm xúc mỗi lần đều dâng lên khó tả.
Con đến với Tâm Pháp bằng nhận thức của một đứa trẻ nghèo nàn về Phật Giáo. Thoạt đầu, khi đọc, con cảm giác đây như là một cuốn tiểu thuyết kiếm hiệp, như một cuộc ngao du sơn thuỷ. Vì thế mà so với Vô Đối Môn, Tâm Pháp lúc thời điểm đó là một sự lựa chọn an toàn.
Có lẽ con là đệ tử chậm tiêu nhất trong Lý Gia nhà mình, cộng thêm bản tánh lạ thường khác đời. Việc đọc đối với con lúc nào cũng đi đôi với sự tưởng tượng. Để có thể dễ hiểu, mỗi khi đọc, con luôn thường hình dung ra những thứ liên quan với nó, bằng một dạng hình ảnh tưởng tượng được vẽ ra trong đầu. Có lẽ mà vì thế, con hợp với lối văn bay bổng, tự do và khoáng đạt.
Việc đọc đó không là ngoại lệ khi con đến với thế giới Tâm Pháp. Bởi lẽ cái ấn tượng đầu tiên trong con, đây là một cuốn Phật Pháp lạ đời, không kinh viện, không bác học, không một hình tượng đặc trưng nào về Phật Giáo giống như thế gian mô tả.
Ngay từ những trang đầu tiên, con đã bị hấp dẫn bởi dòng sông Ô Giang, bởi sông núi nơi đây. Con nghĩ, nếu vừa được ngồi trên thuyền, được thư thả trôi theo dòng nước, vừa đọc sách của thầy, có lẽ thật sự vô cùng thích thú.
Những trang đầu khiến trong con mơ hồ, tưởng tượng ra mình như đang được ngồi trên mạn thuyền, đưa tay chạm xuống mặt hồ, cứ thế trôi theo cùng dòng nước. Đôi lúc phóng tầm mắt ra xa để thấy những ngọn núi cao, thấy mây trôi bồng bềnh, thấy cảnh vật đất trời như hoà quyện hữu tình. Đôi lúc lại thu tầm mắt lại, vểnh tai lên nghe cuộc trò chuyện giữa Lý Tứ cùng huynh đệ Trung Nguyên Cửu Tuyệt.
Thế rồi, khi Lão Đại kể “Ô Giang tháng nắng thì trong, tháng mưa thì đục’’. Con lại ngửi thấy mùi ảm đạm, một mùi phong trần sương gió qua gương mặt của huynh đệ nhà họ. Như thể, họ vừa trải qua một cuộc hơn thua, tranh danh đoạt lợi, cố chiếm cho bằng được một chút hư vị ở đời, để rồi đã quá mệt mỏi. Sống nửa cuộc đời, mà anh em họ chẳng thể hiểu nổi sinh ra để làm gì? Chết rồi sẽ lại đi về đâu?
Lý Tứ chẳng nói họ sinh ra để làm gì, cũng chẳng bảo họ chết sẽ đi về đâu, chả nói tiền kiếp cũng chả phán hậu kiếp. Lý Tứ chỉ hỏi họ về cái nghĩa thế nào gọi là Trung Nguyên, cái gì gọi là là Cửu Tuyệt! Câu hỏi khiến con cười phá lên khi nhận ra lâu nay cái gọi là cửu tuyệt chỉ là hư danh, thì ra nó chẳng hay ho gì. Trong cái cười phá đó, có cả sự rùng mình nổi da gà khi bỗng nhận ra, thế gian này, cả con và cả bao người ngoài kia cũng đang đều ôm những cái ''Cửu Tuyệt'' đó để mà sống. Bảo sao đời có lắm oan than, bảo sao đời có lắm dối lừa, ganh ghét. Cũng chẳng phải bởi vì một chữ ''sinh”, rồi chấp mắc cột trói đó ư.
Con mường tượng ra được cái cảnh anh em huynh đệ họ bừng tỉnh sau một cơn ngu mê chấp niệm thế nào, thấu suốt được cái danh mà họ cột trói, ràng buộc bấy lâu nay. Rồi thì Lý Tứ lại bàn đến đục trong của Ô Giang. Vậy rốt cuộc bản chất của dòng sông này là đục hay trong ? Bỗng rồi con nhận ra, đục hay trong là bởi do tướng nước bị nhiễm hoặc không nhiễm, nhiễm ô thì mắt ta nhìn thấy nó đục, không nhiễm thì mắt của ta thấy nó trong, chứ hổi nào đến giờ, bản chất tánh của nước chả có đục trong.
Mắt ta nhìn, đầu óc tư duy phán xét, để rồi “lúc trong” tâm vui, “lúc đục” tâm sinh phiền não. Lúc này đây, khi ông lão lái đò cất lời, con như mường tượng ra trước mắt con, lão xúc động cảm thán khôn cùng, buông mái chèo, bái lạy Lý Tứ. ‘’Bao nhiêu lần đi trên Ô Giang mà lòng trĩu nặng vì cái nghĩa đục trong. Bao nhiêu lần đi qua Lưu Khanh mà lòng chưa dứt bỏ’’. Bỗng con như người mê đi lạc tìm được ánh sáng để ra khỏi khu rừng.
Con rùng mình khi nhận ra, người thế gian như con, không chỉ cột trói ở một thứ, mà là nhiều, rất nhiều thứ, trói tầng tầng lớp lớp. Bởi do không hiểu, không thấu suốt nên cho dù miệng niệm Phật, thân lạy trăm ngàn cái, nói buông bỏ, nói từ bi hỉ xả, nói lùi một bước để thấy trời cao biển rộng nhưng hoá ra cuối cùng, lùi cũng bị cột trói, mà tiến thẳng hay xoay trái xoay phải thì xung quanh bốn phương tám hướng đều là sự trói buộc.
Dong thuyền về đến thôn Lưu Khanh, con như thể được bám áo thầy mà vào nhập tiệc ở đại bản doanh. Cái cách thầy miêu tả về địa hình vị thế đại bản doanh khiến con cảm thấy hào hứng, và thích thú như thể mọi hình tượng ngôn từ câu chữ tháo bỏ khỏi gồng xích, tự do bay nhảy, nối đuôi nhau xếp thành một bức tranh phong cảnh. Mon men vào bàn trà đạo, cứ qua một trang sách con lại thêm một lần hiểu biết.
Khi thầy nhắc đến Chánh Tư Duy, Chánh Định. Những văn tự này trước đây con đã từng nghe qua nhưng không ngấm được vào đầu. Cái hay của Tâm Pháp ở chỗ, khi nhắc đến những văn tự này, thầy đưa một ví dụ rất đời thường, và dễ hiểu. Chỉ qua việc người kia một hồi suy luận logic về việc tại sao có một ly nước thơm ngon giữa đường, cuối cùng quyết định không uống mà làm con hiểu ra việc hành Chánh Tư Duy và Chánh Định như thế nào.
Hóa ra lại quá đơn giản, suy nghĩ biết cái gì nên làm hay không nên làm. Nếu không nên làm thì đừng làm. Nếu không đáng thì đừng ôm nó vào lòng. Mà đã biết là không đáng, thì lúc đó tự ngay tức khắc tâm cũng dừng sinh luyến ái. Tâm Thanh Tịnh phải chăng là Tâm không vọng động? Vậy để có được Tâm không vọng động thì phải thấu hiểu, thông suốt một cách rõ ràng. Thông suốt rồi, ắt sẽ không sinh luyến ái, tức khắc bình an tự tại.
Mỗi một câu hỏi, thắc mắc của chín huynh đệ, con như nhận ra chín huynh đệ này, mặc dù sinh ra ở thời cổ trang, sống dưới binh đao kiếm pháp, nhưng cái cách thầy phác hoạ câu hỏi của họ lại vô cùng Thời Đại.
Ví dụ Lục Đệ, văn hay chữ tốt, hình tướng vị này như khắc đậm về một người đọc rất nhiều kinh điển, nghe qua rất nhiều bài pháp, rất ham đọc, một cái tâm cầu đạo rất lớn. Nhưng chính vì đọc quá nhiều, nghe quá nhiều, mà lại vô tình chấp vào văn tự, ngôn ngữ. Ngài ấy khổ công nghiên cứu quá nhiều, thông thạo kinh điển văn tự quá nhiều nhưng đến hồi, lại quên hai từ ''TÂM XẢ''. Thế là nhờ Lý Tứ, mà ngài ta như từ tối mà bước ra ánh sáng, hiểu thấu được cái gốc của Phật Pháp.
Trái với Lục Đệ, hình tướng của Cửu Đệ lại phác họa một cách chân thực về những con người thế gian hơn hẳn, trong đó có con. Thích ăn chay, niệm Phật, phóng sanh, cúng dường, ngồi thiền, nghe Pháp, xây chùa, đúc chuông, làm công quả để tích phước đức. Thật ra những việc ở trên nếu thực hiện thường xuyên thì thật sự tốt. Bởi nếu ai cũng làm việc thiện, tránh xa việc xấu thì thế gian này có lẽ chẳng cần đến các tôn giáo, đạo pháp làm chi.
Thế nhưng, có một điều mà xưa nay, con luôn băn khoăn trăn trở. Phải tu sao để giải nghiệp, phải tu sao để phước đức, phải tu sao để nhân quả về sau tốt đẹp, rồi thì suốt ngày nghe thầy bà nói có hạn này hạn kia, cần phải giải nghiệp. Thế là cứ loanh quanh luẩn quẩn mãi trong cái nghiệp ở đời. Nhưng khi nghe thầy giảng về nghiệp, con bỗng như hiểu ra, nếu cứ tu tập để cầu cho hết nghiệp xấu, để phước đức về sau, an nhàn hạnh phúc, nhân tốt bây giờ thì ắt quả tốt về sau thì há chẳng phải chăng con cũng đang sinh lòng tham, chấp mắc vào cái danh của bình an tự tại. Tham an nhàn, cơm no áo mặc đầy đủ. Sợ duyên xấu, sợ quả báo, sợ nghiệp nặng muôn đời khổ đau. Nhưng do đâu mà khổ đau, do đâu mà muộn phiền thì lại không thấu suốt được. Cứ chấp vào điều này, thì cho dù kiếp sau, có sinh vào một nhà giàu có, có hanh thông thuận lợi dài dài thì cái tâm vẫn phiền não. Phiền não là phải làm sao để kiếp sau, kiếp sau nữa được tốt hơn. Cuối cùng thì con vẫn chỉ là loanh quanh ở trong ba cõi mà không thoát ra được. Vậy thì tu thế này có ích chi ? Phật Giáo là đạo giải thoát, giác ngộ, thoát khỏi xiềng xích. Nhưng nếu tu phước đức như trên, há phải chăng chỉ thoát được chữ khổ của thế gian, nhưng lại vẫn mắc vào cái ngã của tham bình an, tham thanh tịnh mà vô tình hiểu rằng làm phước đức để cầu thanh tịnh. Mọi người chẳng hề biết rằng, chỉ cần một phen giác ngộ, tâm tự thanh tịnh thì tức khắc phước đức vô lậu cùng công đức phát sinh.
Việc đọc của con giờ đây thực hành một cách tự nhiên, không dừng lại ở việc tưởng tượng nữa mà bắt đầu thêm một bước ghi nhớ. Ghi nhớ một cách tự nhiên hồi nào không hay. Một cách rất lạ kỳ, con đọc con hiểu, con lại quên. Con nghe thầy giảng con hiểu, sau rồi con lại quên. Thế nhưng, mỗi lần con va chạm tiếp xúc với thế giới, đụng chuyện gì, con lại mờ mờ ảo ảo: Hình như thầy có giảng.
Bảo con tường thuật lại kiến thức thầy giảng thì như đánh đố, nhưng cái đầu con thì đã hình dung ra được đôi ba vấn đề. Giống như bữa, có huynh đệ hỏi về một câu ”Mừng Xuân Di Lặc” ở một ngôi chùa nào đó có treo, hoặc như vô vàn bài thuyết pháp được những người thầy thế gian chỉ dạy. Người đời dạy cho đệ tử sao con không biết, riêng thầy, thầy dạy cho con sự khiêm nhường, vô ngã. Tui biết nhiều không có nghĩa tui biết tất tần tật. Cái gì không nắm rõ ràng hiểu thấu, tui sẽ nói cái đó tui không biết. Bạn muốn rõ hãy hỏi người viết ra nó thì sẽ được chính xác nhất.
Thầy dạy chúng con, không trả lời ẩu tả, không phán xét lung tung, tránh rơi vào tình trạng cái gì cũng tưởng mình biết mà chẳng có điều gì biết cho ra hồn, dẫn đến việc quan trọng nhất đó là tự thân cần phải giác ngộ để hết u mê thì lại không biết, hậu quả thành ra kẻ tự dối mình, gạt người. Điều này con thấy nhan nhản trong đời, cho nên con rất thích câu nói của thầy: “Trong đám mù, khi anh mù lẻo mép cao hứng nhảy lên làm thầy, nói năng vung vít, chỉ trỏ lung lung, cả đám mù nghe theo mà không sụp hầm hay té giếng chết nhăn răng mới là chuyện loạ”. Từ ngày gặp thầy đến nay, con nhận ra kiếm một anh chột mắt khó hơn lên trời, chỉ thấy toàn mấy anh mù loà lẻo mép, vung vít lung tung, thầy thấy có chán không?
Thầy chỉ huynh đệ chúng con về cách làm người, không được quy chiếu một điều gì về một vấn đề nào mà ta mới quan sát. Không được đánh giá đúng sai khi ta không phải người trong cuộc và chưa biết rõ bản chất của nó. Trước mọi vấn đề hãy quan sát, hãy tĩnh lặng để mà ngẫm nghĩ, tư duy. Tự nhiên, con lại ngẫm nghĩ. Quả đúng, người ở trong bóng râm đâu thể nào cùng một cảm xúc với người đi ngoài nắng. Người nếm thử vị chanh mà chưa từng nếm qua vị chua của quả khác đâu thể nào phán bất kỳ thứ gì đều chua như chanh.
Rồi sự ghi nhớ trước đó giúp con bắt đầu nhớ ra, à, cái này chẳng phải là lặng thinh của Duy Ma Cật hay sao. Hồi mới nhập môn, thầy đưa con đọc qua bài viết “Cái Lặng Thinh Của Duy Ma Cật”, rồi bảo con làm hình ảnh minh hoạ. Lúc đầu đọc, con bị choáng ngợp vì sự mông lung, không biết nói sao về cái lặng thinh này. Nhưng thời gian sau, khi sinh hoạt, rõ là thầy chả đả động gì đến Bồ tát Duy Ma Cật, nhưng lại khiến con tự động hiểu được lặng thinh của Duy Ma Cật rốt cuộc thì ra làm sao. Thì ra tĩnh lặng ở đây không phải giả câm, giả điếc, giả mù như một pho tượng mà chính là đang Chánh Tư Duy và giảng nói cho người về Pháp Môn Bất Nhị một cách trí tuệ.
Giờ đây con tự đúc kết lại hành trang của mình qua nhiều lần góp nhặt, đi theo thầy học đạo.
Cái cột trói vào hư danh như của Trung Nguyên Cửu Tuyệt, hay sự giác ngộ đục trong của ông lão lái đò thì ra chính là bước đầu tiên cơ bản khi tu tập. Đó là sự thấu suốt được vấn đề để rồi xả. Xả cho sạch nhưng quan niệm, chấp mắc trói buộc ở đời.
Giờ đây, đối với việc xoay chuyển muôn biến vạn hoá của thế gian, ta đừng mang nó vào trong tâm, cũng đừng ràng buộc với những điều đó để rồi tự mình rước khổ vào thân. Không cột trói, không mang mọi thứ đổ vào tâm, tuy nhiên, theo con vẫn chưa đủ. Bởi lẽ thân này là do nhiều duyên tạo thành, không ai sống một mình trên cái thế gian này mà nói rằng tôi chẳng liên quan đến bất kỳ một ai cả. Vậy thì lại đến lúc dùng Chánh Tư Duy và Chánh Định. Tư duy đúng, hiểu đúng, việc nên làm thì làm, việc không nên làm thì không nên làm. Vậy muốn hiểu đúng, muốn thông suốt tường tận để hành đúng, chẳng phải ta lại phải học cách sống Lặng Thinh của Duy Ma Cật đó sao. Trước bất cứ một vấn đề gì, đừng vội phán xét, đừng vội quăng phán xét của mình ra ngoài thế gian. Lặng lẽ quan sát, lặng lẽ nhìn, lặng lẽ tư duy. Đừng vội vàng đưa ra bất kỳ một phán xét nào về bất cứ điều gì khi ta và họ không ở cùng một chỗ, một vị thế. Những gì của thế gian chạy qua chạy lại xung quanh, ta lại dùng tâm tĩnh lặng để mà đối đãi.
Con cảm tạ ơn thầy đã dạy dỗ, giúp con giác ngộ, hiểu được và xả được những cột trói trước đây.
Thầy đưa đường chỉ lối cho con bước ra khỏi bóng tối, mà tìm về với ánh sáng của Chánh Pháp. Những ngày đầu năm 2020, nhìn lại 2019, con cảm thấy thật sự không uổng phí. THẬT XỨNG ĐÁNG.
Đọc lại Tâm Pháp, cảm xúc dâng trào thôi thúc con viết ra đây. Mà viết xong, con đọc lại, cảm thấy những lời bộc bạch này không khác gì một nồi lẩu thập cẩm. Không đầu không cuối. Mong thầy khai sáng thêm cho con, và cảm thông trước sự nghèo nàn về ngôn giáo.
Sự học biết của con vẫn còn nhiều hạn chế. Con cảm ơn ơn đức thầy.
Con, đệ tử Lý Ngân Thoa kính chúc thầy sức khoẻ !
10/02/2020
Bạn cảm nhận bài viết thế nào?


