Tứ Thiền Của Nhị Thừa

Đối với nhị thừa, để được thiền phải theo lộ trình nhất định, tức là vượt qua sơ nhị tam tứ thiền, mỗi thiền phải đủ các chi. Ví như sơ thiền phải đủ năm chi là tầm tứ hỷ lạc và nội tĩnh nhất tâm, nhị thiền xả tầm tứ, tam thiền xả hỷ lạc, tứ thiền bất khổ bất lạc.

Tháng 3 14, 2022 - 22:18
Tháng 3 3, 2024 - 07:23
 0  200
Tứ Thiền Của Nhị Thừa
Phật Giáo Và Thiền - Tác Giả Lý Tứ

A. Tứ Thiền Của Nhị Thừa.

Được triển khai khá cụ thể: có phân tích, tổng hợp, chỉ bày khúc chiết, nói rõ nguyên nhân, nói rõ mục đích đi theo lộ trình nhất định. Thiền này được nhiều đệ tử Phật ứng dụng tu chứng hiện đời như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, và cứu cánh giải quyết khổ ba cõi.

Bồ Tát tân học đã phát tâm nhưng tri kiến là tri kiến của nhị thừa nên cũng y thiền này để tu. Nếu là Duyên Giác thì  giác ngộ các pháp không nhân chỉ do duyên hòa hợp sanh. Thấy được chỗ dừng một chi trong 12 chi nhân duyên, đưa tâm vào tĩnh lặng gọi là giác, dùng ý quở trách vọng niệm gọi là quán. Nương sức huân lắng của cứu cánh các thiền thú cũng lần lượt trải qua và đích đến không khác Thanh Văn.

Thanh Văn, Duyên Giác giác ngộ không giống nhau nhưng lộ trình đưa đến giải thoát không khác vì thế đồng chứng A La Hán quả. Phật dạy chỗ chứng của các thừa này và từ bi tâm chỉ đủ tự cứu nên gọi chung là nhị thừa. Hai thừa đồng lấy thân niệm xứ làm tiền đề dẫn khởi phương tiện.

Đối với nhị thừa, để được thiền phải theo lộ trình nhất định, tức là vượt qua sơ nhị tam tứ thiền, mỗi thiền phải đủ các chi. Ví như sơ thiền phải đủ năm chi là tầm tứ hỷ lạc và nội tĩnh nhất tâm, nhị thiền xả tầm tứ, tam thiền xả hỷ lạc, tứ thiền bất khổ bất lạc.

Sau đây là lộ trình tiêu biểu của Tứ Thiền nhị thừa[[1]]

a. Giữ giới luật, làm sạch ba nghiệp sáu căn.

“Vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và học tập trong giới học, thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh. Sinh hoạt trong sạch giới hạnh cụ túc, thủ hộ các căn, chánh niệm tỉnh giác, và thiểu dục tri túc.”

b. Dùng bốn niệm xứ để chế ngự tham ưu ở đời.

“Này các Tỷ Kheo, ở đây vị Tỷ Kheo sống, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời.”

c. Thiểu dục tri túc.

“Ở đây Tỷ Kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Đại vương[[2]], cũng như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh; cũng vậy, Đại vương, vị Tỷ Kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo. Như vậy, này Đại vương, là Tỷ Kheo biết đủ.”

d. Diệt trừ tham sân và ngũ triền cái.

“Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm, thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm và thụy miên; với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm, thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.”

e. Được thiền.

“Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái ấy, hân hoan sanh; do hân hoan nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an; do thân khinh an, lạc thọ sanh; do lạc thọ, tâm được định tĩnh. Tỷ Kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ Kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.”

g. Hướng tâm đến cứu cánh.

“Này Đại vương, ví như một hòn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và một sợi giây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi giây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, hay màu vàng nhạt. Một người có mắt cầm hòn ngọc ấy trên tay sẽ thấy: Hòn lưu ly bảo châu này, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và sợi giây này được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi giây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, hay màu vàng nhạt. Cũng vậy, này Đại vương, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy. Tỷ Kheo dẫn tâm, hướng tâm đến chánh trí, chánh kiến. Vị ấy biết: Thân này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt. Trong thân ấy thức ta lại nương tựa và bị trói buộc.” [[3]]

Trong hệ thống tu tập thiền nguyên thủy, thiền thứ tư cực kỳ quan trọng bởi lẽ ở trong thiền này tùy vào căn cơ và túc duyên, công đức phát sinh trong quá trình tu tập, hành giả có thể thấy được nhiều vấn đề trọng đại của Phật giáo.

Đệ tứ thiền hay thiền thứ tư biểu hiện nguồn tâm linh mẫn như: “Nhu nhuyến dễ sử dụng, bình thản và vững chắc.” Tâm này có thể hoạt dụng hết thảy chỗ, là bờ mé để vào cứu cánh nên sau khi chứng được thiền này, hành giả có thể hướng tâm đến bất kỳ mục tiêu nào, miễn mục tiêu đó phù hợp với tri kiến đã giác.

Nhờ tri kiến và định lực vững chắc, hành giả có thể thúc đẩy tâm mau chóng tương ưng cứu cánh.

Nếu tri kiến hoặc chỗ cần giác chưa giác, có thể hướng tâm đến thiên nhãn để biết nhân nào sinh ra quả này. Hướng tâm đến túc mạng để biết quả này từ đâu mà có, và hướng tâm đến lậu tận để biết đầu mối sinh tử trong ba cõi.

  • Từ đây dùng huệ trí thoát khỏi ba cõi, nhờ giác ngộ đầu mối xuất sinh chứng Diệt Tận định.
  • Hoặc có thể hướng tâm đến tứ không định bẻ gãy ý thức sau đó chứng Diệt Thọ Tưởng định.

Thậm chí chư Phật, chư Đại Bồ Tát lấy đây làm hang ổ nghỉ ngơi, hoặc hướng trí tuệ vào giác ngộ sâu thẳm, thuật ngữ kinh gọi là: “Tam muội lạc chánh thọ ý sanh thân.”

Nói chung đây là bệ phóng tốt nhất để đẩy con tàu thân tâm vượt khỏi tâm, ý, ý thức, mọi công đức có được đều huân về thiền này. Vì thế kinh đại thừa Phật thường dạy: “Như Lai đặt yên người tu hành nơi trời sắc cứu cánh.”

  • Trong Tứ Thiền, hai thiền khó đạt đến là thiền thứ nhất và thiền thứ tư.

− Thiền thứ nhất khó vào, bởi lẽ đây là ranh giới của đa chủng tánh và nhất chủng tánh. Vô minh thì tập nhiễm lâu đời, có thể nói toàn thân tâm là vô minh. Còn giác ngộ và ứng dụng giác ngộ để tu hành là sơ tâm, đã là sơ tâm thì khó an định vì đa chủng tánh nhiễu loạn. Nếu không giác ngộ mãnh liệt và khéo thiện xảo trong việc điều tâm, thì không thể vào được thiền thứ nhất.

− Thiền thứ hai và thiền thứ ba chỉ việc thúc đẩy cho các chi sung mãn thì sẽ tự xả. Một số chi dần dần mất đi là do nội tĩnh tăng trưởng hoặc khi sung mãn tự nó bảo hòa. Giống như ăn no sẽ không thèm ăn.

− Thiền thứ tư là bờ mé giữa mê và giác nên đòi hỏi phải hội đủ nhiều yếu tố như:  “Định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản.”

Những yếu tố này gần như hội tụ đủ tịnh hạnh, công đức, và trí tuệ. Nơi đây còn chút gì đó của mê và một chút gì đó của giác, chưa thật sự hết mê, chưa thật sự đã giác. Như một người đứng trên đỉnh núi cao, chỉ có một chút da bàn chân tiếp xúc với đất, thân đã ở trong hư không, nhưng phải còn quyết định cuối cùng rời khỏi ngọn núi này bằng hướng nào.

[[1]] các đoạn trích nằm trong kinh Sa Môn Quả -HT. Thích Minh Châu dịch.

[[2]] Danh  xưng  Đại vương ở đây Phật nói với vua A Xà Thế.

[[3]] Trích kinh Sa Môn Quả -HT. Thích Minh Châu dịch.

(còn nữa)

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

like

dislike

love

funny

angry

sad

wow