Tổng Kết Chủ Đề: Trạch Pháp Giác Chi

Trò chơi trí tuệ số 01.2020 - Có thể thấy, hầu hết những câu trả lời của HĐ lần này gần như không khác biệt nhau nhiều lắm…Điều này cho thấy, mọi người nắm vững hai yêu cầu trọng tâm của câu hỏi: Thế nào là “Trạch pháp” và thế nào là “Trạch pháp giác chi” !!!

Tháng 3 16, 2022 - 20:59
Tháng 7 4, 2022 - 21:57
 0  86
Tổng Kết Chủ Đề: Trạch Pháp Giác Chi
Trò Chơi Trí Tuệ Số 01.2020

Các bạn !!!

Trong thời gian TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ – 01/2020 diễn ra, BQT đã nhận được trả lời của: Lý Anh Tỵ, Lý Tâm Pháp, Nguyễn Quang Khánh, Lý Liêm, Lý Viết Uyên, Lý Nguyên Trang, Lý Thái Đăng, Lý Giác Thư, Lý Ngộ Tuấn, Lý Thiện Huệ !!!

Theo nhận xét cá nhân của mình, hầu hết những câu trả lời của HĐ lần này gần như không khác biệt nhau nhiều lắm…Điều này cho thấy, mọi người nắm vững hai yêu cầu trọng tâm của câu hỏi: Thế nào là “Trạch pháp” và thế nào là “Trạch pháp giác chi” !!!

Tuy nhiên, khi đi vào phân tích, lập luận để bảo vệ quan điểm thì, trong các bài viết hầu như thiếu chặt chẻ, sức thuyết phục chưa cao, đôi khi không bám sát các yêu cầu của câu hỏi đặt ra… Nói chung, sức thiện xảo từ các câu trả lời còn nhiều hạn chế !!!

Tất nhiên, những khiếm khuyết vừa nêu nhất định sẽ được chúng ta khắc phục trong thời gian tới !!! Vì rằng, hiểu vấn đề là một chuyện, sử dụng văn chương để mô tả một cách thiện xảo điều ta hiểu là một chuyện !!! Khác hơn, viết văn, tạo luận…v..v…thuộc về “tay nghề” !!! Mà đã nói đến “tay nghề” là phải có quá trình học tập và rèn luyện, chẳng mấy ai sinh ra tự làm được ngay !!! Đây là giai đoạn chúng ta đang học hỏi và rèn tay nghề… Vì thế, viết hay, viết dở…lúc này, chưa phải là điều gì quan trọng lắm !!!

BQT xin tán thán tất cả các HĐ đã gởi bài tham gia TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ lần này !!! Xin hẹn gặp mọi người trong TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ – 02/2020 !!!

Để giúp các bạn có cơ hội tham khảo, so sánh, đánh giá bài viết của bản thân và trả lời của các HĐ khác, nhằm học tập và thấy được điều hay, cái dở của nhau…BQT xin chuyển đến các bạn một số bài viết của Trò Chơi Trí Tuệ lần này !!!

LÝ TỨ

1. Bài viết của Lý Thiện Huệ

Thầy kính!!!
Con xin đảnh lễ Thầy ba lạy!!!
Con Xin trả lời các câu hỏi:

1) Khi ta phân tích một pháp bất kì để thấy (nhìn nhận) pháp đó là đúng hay sai, là chánh hay tà…v..v…Phân tích như vậy, có được gọi là “Trạch Pháp Giác Chi” hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Đề nghị giải thích !!!

�Trả lời:
Theo con, bản chất của một pháp chẳng phải chánh hay tà, mà phụ thuộc vào động cơ của người thực hiện pháp ấy. Ví như con dao,chẳng phải thiện cũng chẳng phải ác. Thiện hay ác phụ thuộc vào người sử dụng con dao ấy, tức phụ thuộc vào mục tiêu, động cơ…người sử dụng. Vào tay người “thợ lành nghề” thì con dao được xem là thiện, nhưng cũng con dao ấy, nếu vào tay của kẻ cướp thì trở thành bất thiện pháp.

Trạch pháp và trạch pháp giác chi, cũng đồng ý nghĩa là “giản trạch một pháp”, nhưng kết quả thì có sai khác. Với người thế gian, thì trạch pháp giúp người này tăng trưởng kiến thức thế gian, vì nó thuộc về thế gian pháp. Nhưng với người có tâm cầu đạo giác ngộ và người đã giác ngộ trong Phật Đạo, thì “Trạch Pháp” bấy giờ được gọi là “Trạch pháp giác chi”, là vì hành động này nó sẽ giúp người giác ngộ, và viên mãn trí tuệ trong Phật Đạo, thuộc về xuất thế pháp.

Vì vậy khi phân tích một pháp bất kì để thấy (nhìn nhận) pháp đó là đúng hay sai, là chánh hay tà…v..v…Phân tích như vậy, có được gọi là “Trạch Pháp Giác Chi” hay không?!! Nó còn phụ thuộc vào mục tiêu của “chủ thể” phân tích.

Đồng một pháp, nhưng với người chưa giác ngộ, người không có tâm cầu đạo giác ngộ, thì sự phân tích nàychỉ được gọi là kiến giải, thuộc về thế pháp. Vì kết quả đạt được của sự phân tích này, ngoài sự tăng trưởng kiến thức thế gian ra, không còn tìm thấy được sự lợi ích nào khác sự an lạc của Đạo Giác Ngộ.

Ví như người mù bẩm sinh, được nghe kể hoặc học lóm màu sắc. Và sau đó, kẻ mù này dùng mọi sự hiểu biết của mình để tư duy về màu sắc, theo như những gì đã được nghe và được học. Nhưng kết quả cuối cùng trong sự nhận thức cũng chỉ là một màu u tối, bằng chứng là cho dù anh mù này có nổ lực giảng nói cả cuộc đời về màu sắc, cũng không thể chỉ rõ được các màu sắc đặt trước mặt anh ta.

Cũng một pháp, nhưng với vị tu hành có tâm cầu Đạo, thì vị này sẽ tiến gần đến sự Giác Ngộ và với những vị tu hành đã Giác Ngộ trong Phật Đạo, sẽ giúp vị này thành tựu các Tam muội môn, và cũng sẽ thành tựu trí tuệ trong vị lai.

�2) Phân tích một pháp (bất kì) với ý nghĩa như thế nào, mới được gọi là Trạch Pháp Giác Chi ??? Khi ta phân tích một pháp (bất kì) đầy đủ ý nghĩa của Trạch Pháp Giác Chi thì, kết quả (cứu cánh) của việc phân tích ấy cho ra thành quả gì trong Phật đạo ??? Hãy giải thích vì sao nó có được thành quả như vậy ???

Trả lời:
Theo con, khi phân tích một pháp (bất kì) với điều kiện, mục tiêu của pháp cần phân tích nhằm hướng đến giúp mình Giác Ngộ, hoặc giúp người Giác Ngộ trong Phật Đạo, thì sự tư duy, phân tích như vậy, mới được gọi là Trạch Pháp Giác Chi.

Trạch Pháp Giác Chi là một thuật ngữ trong Phật Đạo, là một chi phần trong thất giác chi, trong ba mươi bảy phẩm gồm: Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, Thất giác chi và sau cùng là Bát chánh đạo.

Trạch Pháp Giác Chi có nghĩa là giản trạch một pháp nhằm đưa đến Giác Ngộ và viên mãn trí tuệ trong Phật Đạo, là sự kế thừa từ sự nhận thức nào đó mà nguyên liệu đầu vào bắt đầu từ tứ niệm xứ. Đây được xem là quy trình bắt buộc cho những ai có tâm cầu Đạo giác ngộ, đạo giải thoát và đạo trí tuệ. Ngoài bốn niệm xứ này ra, sẽ không còn niệm xứ khác để vị tu hành đạt được cứu cánh Giác Ngộ trong Phật Đạo. Vì chúng sanh có khổ cũng không nằm ngoài bốn món này, và cũng từ bốn niệm xứ này mà giúp mình Giác Ngộ. Việc này cũng giống như, chúng ta đau ở đâu, phải y nơi đó mà điều trị, không thể đau cái răng mà mang cái chân ra đắp thuốc rồi mong lành bệnh.

Thân, thọ, tâm, pháp là bốn niệm xứ bắt buộc người tu hành phải tư duy phân tích tìm đến cứu cánh của sự Giác Ngộ. Tuy nói bốn, nhưng với vị tu hành mong cầu sự Giác Ngộ, chỉ cần Giác Ngộ một niệm xứ thì các niệm xứ kia cũng tuần tự Giác Ngộ, đây cũng là nét đặc trưng trong Phật Đạo. Vì tuy bốn món, nhưng chỉ một thức nhận biết…Và kết quả (cứu cánh) của việc phân tích này cho ra thành quả “an lạc, thanh tịnh” của tự thân trong trong Phật đạo.

Ví như Tâm chỉ là hiệu ứng tình cảm, do các căn xúc đối với trần cảnh trong lúc mê mà sanh khởi. Và tâm này được gọi là hư vọng, hư vọng là vì nó không thật, bằng chứng là trước khi xúc đối tìm tâm không thấy…và sau khi xúc đối một thời gian nó cũng tự mất, nhường cho một thứ tâm hư vọng khác… cứ như thế mà tâm thức khổ vui sanh diệt mãi không dừng…Trong khi ấy, nếu vị tu hành bình tâm suy xét, do đâu mà tâm hiện hữu..??? Sanh diệt mãi không dừng..???. Phân tích đến tận nguồn cơn mới thấy rằng, chỉ vì mê mờ khi các căn xúc đối, mà tâm hay sanh khởi, dứt mê mọi thứ lụy phiền chấm dứt, bấy giờ vị tu hành mới nhận ra “không tâm” đích thị an lạc Niết bàn…

Hoặc với Pháp niệm xứ, nếu vị tu hành biết rõ Pháp là đối tượng của ý căn, sanh ra các nhận thức, quan niệm, suy lường…khi tiếp xúc với trần cảnh… chỉ cần dừng duyên “phân biệt” trước thấy nghe hay biết, thì tâm thức bỗng dưng dừng lặng… an lạc thanh tịnh niết bàn tự hiện. Đây là hệ quả tất yếu của quá trình tư duy như pháp, và được gọi là “Trạch pháp giác chi”. Tức giản trạch một xứ trong tứ niệm xứ để đạt đến cứu cánh của Giác Ngộ.

Trên đây là những gì hiểu biết của con. Kính Thầy chỉ dạy thêm cho con!!!
Con chúc Thầy thật nhiều sức khỏe, trụ thế dài lâu nơi thế gian, cho HĐTM chúng con và hữu tình được hưởng nhiều lợi ích!!!
Con, Lý Thiện Huệ

2. Bài viết của Lý Thái Đăng

Kính Thầy !!!
Kính thưa các Huynh Đệ Tỷ Muội (HĐTM) !!!
Con xin trả lời câu hỏi TRÒ CHƠI TRÍ TUỆ – 01/2020

1) Khi ta phân tích một pháp bất kì để thấy (nhìn nhận) pháp đó là đúng hay sai, là chánh hay tà…v..v… Phân tích như vậy, có được gọi là “Trạch Pháp Giác Chi” hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Đề nghị giải thích !!!

Trả lời:
Để trả lời câu hỏi này trước hết ta cần thống nhất khái niệm “Thế nào là một Pháp”?

“Pháp” (trong Phật đạo) là sản phẩm của nghĩ suy, có thể nhận ra bằng các dấu hiệu: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh; như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”… “Ba duyên (căn, trần, thức) hòa hợp… thì sanh pháp “, “Các pháp do duyên sanh, pháp theo duyên mà diệt…”vv…

Có thể thấy, Pháp chỉ là những quan điểm, quan niệm, đánh giá, kết luận… của ý thức đối với Tứ niệm xứ (thân thọ tâm pháp) chứ Pháp không phải … là Vật… ngoài… Tứ niệm xứ.

Vậy, khi ta “Phân tích một pháp bất kỳ” để giải quyết điều gì?

Phật đạo được coi như một nền giáo dục làm thay đổi nhận thức, Tứ đế như bốn cấp học, 37 phẩm như 37 môn học được sắp xếp như những bậc thang từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu. Phương pháp học tập lấy Văn – Tư – Tu làm quy trình xử lý nhằm thay đổi nhận thức trong suốt quá trình học tập Tứ đế.

* VĂN: Nguyên liệu đầu vào là một Pháp bất kỳ (trong 37 phẩm ví dụ thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ, pháp niệm xứ…vv).
* TƯ: Công nghệ xử lý, vận dụng tất cả những khả năng để tư duy, phân tích, đối chiếu, so sánh, giảng giải… để xử lý nguyên liệu đầu vào (từng phẩm trong 37 phẩm).
* TU: Cho ra sản phẩm là sự thay đổi nhận thức qua từng môn học, lớp học, cấp học. (Nhận thức thay đổi, hành vi thay đổi và đời sống thay đổi,… hết khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo… có được niềm vui, an vui, mãi vui, tự tại..vv).

Quy trình Văn – Tư – Tu được ứng dụng trong suốt quá trình học tập nhằm thay đổi nhận thức… Hết khổ, Dứt tập, giải quyết được Nhuận chi vô minh; Chứng diệt giải quyết được Căn bổn vô minh và Tu đạo giải quyết nốt Vô minh trụ địa.

Nhưng quá trình Phân tích như vậy, có được gọi là “Trạch Pháp Giác Chi” hay không? Thì ta cần đối chiếu “sự phân tích” đó có phẩm Huệ Lực tham gia hay không?

Huệ lực là phẩm chất đặc biệt của (giác), nó có tác dụng làm thay đổi căn bản về chất của người tu tập, Huệ lực phát sanh là thành quả của cả một quá trình học tập các môn học trước đó (Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực).

Sự phân tích một pháp bất kì dựa trên Tứ Đế, 37 Phẩm khi chưa có Huệ lực phát sanh và tham dự, thì mọi sự phân tích như vậy, chưa được gọi là “Trạch Pháp Giác Chi”, mà chỉ là phân tích một pháp bất kỳ (chia chẻ văn tự) theo ý nghĩa thế gian.

�2) Phân tích một pháp (bất kì) với ý nghĩa như thế nào, mới được gọi là Trạch Pháp Giác Chi ??? Khi ta phân tích một pháp (bất kì) đầy đủ ý nghĩa của Trạch Pháp Giác Chi thì, kết quả (cứu cánh) của việc phân tích ấy cho ra thành quả gì trong Phật đạo ??? Hãy giải thích vì sao nó có được thành quả như vậy ???

Trả lời:
Phân tích một pháp (bất kì) để được gọi là Trạch Pháp Giác Chi, ta cần phải bàn đến vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của Trạch Pháp Giác Chi và rút ra ý nghĩa của nó.

“Trạch Pháp Giác Chi” là phẩm kế tiếp sau phẩm Huệ lực. Nhờ có Huệ lực (giác) tham gia mà sự phân tích lúc này đã thay đổi bản chất có Giác có Quán, với tên gọi mang ý nghĩa mới là “Trạch Pháp Giác Chi”, Giác Quán sẽ kích hoạt chuyển động toàn bộ Thất giác chi (Trạch pháp giác chi; niệm giác chi, khinh an giác chi, hỷ giác chi, tinh tấn giác chi, định giác chi và xả giác chi). Quy trình hoạt động Thất Giác Chi trở thành ‘Tam Muội Môn” theo quy trình “Có giác có quán, không giác có quán và không giác không quán”. Bất động giải thoát là kết quả (cứu cánh) thành tựu của Tam Muội Môn; của Xả Giác Chi hay khi ta phân tích một pháp (bất kì) đầy đủ ý nghĩa bằng khởi đầu Trạch Pháp Giác Chi.

“Thất giác chi” cũng được ví như cầu nối độc đạo giữa “Kiến đạo vi” và “Tu đạo vị” vì vậy muốn vào Bát Chánh Đạo không thể, không trải qua Thất Giác Chi.

“Thất giác chi” cũng như là một nơi trung chuyển giữa hai cảnh giới thế gian và xuất thế gian; như là một bộ lọc gạn đục nguồn tâm ô nhiễm, trả lại bản thể chơn như của hữu tình…

“Thất Giác Chi” ví như là hệ thống kiểm soát an ninh của tòa nhà Bát Chánh Đạo, có nhiệm vụ gạt bỏ những ai còn mang theo “hàng cấm, hàng nhái…” thì ngăn chặn không cho đi vào tòa Bát Chánh, như vi phạm quy định “Không bốn tướng” (nhân, ngã, chúng sanh, thọ giả); “ Không tứ cú” (có, không, cũng có cũng không, và chẳng có chẳng không); “Không bốn bệnh” (tác, nhậm, chỉ, diệt); “Không ba thời” (quá khứ, hiện tại, vị lai) vv…

Hệ thống kiểm soát an ninh của tòa nhà Bát Chánh Đạo có bảy công đoạn kiểm tra, rà soát như một băng chuyền tự động, soi rọi phát hiện mọi vật cấm, các loại vi rút, vi trùng, bệnh dịch…vv…gây ô nhiễm môi trường văn hóa vô lậu, trong đó “Trạch Pháp Giác Chi” được coi là giai đoạn (tự giác) đầu tiên dành cho “Hành khách” tự phân tích tìm hiểu quy tắc đề ra, tự kiểm kê, rà soát trên bốn chỗ (thân, thọ, tâm, pháp), đối chiếu quy định (an ninh)… sau khi đã thấu tỏ các quy định, trong lòng dừng niệm phân biệt… thì pháp xả, tự xả mọi “Hàng cấm, điều cấm” pháp hư vọng trên (tứ niệm xứ) tự bốc hơi, tiêu tan, biến mất.

“Thanh tịnh tâm” là tên chiếc vé, tự động cấp cho người tu hành đủ tư cách vào cửa để lên tàu bát nhã khi đã thực hiện đúng quy trình “Trạch Pháp Giác Chi” và ngay đó, người tu hành (lặng lẽ quan sát không kết luận) sẽ nhận ra cảnh giới “Quán Mâu Ni tĩnh tịch (cảm nhận được Niết bàn thanh tịnh, không còn niệm khởi); thế là xa lìa sanh (chấm dứt sanh tâm, sanh pháp, sanh ngã…); ấy gọi là chẳng thủ (nghĩa là người ấy trong lòng rổng rang, không nương tựa không chấp trước một vật gì trên đời); đời này đời sau tịnh (ra khỏi luân hồi, sanh diệt).

Bên cạnh đó, có một lối đi dành cho khách VIP với tiêu chuẩn “DỪNG PHÂN BIỆT” nghĩa là: “Trong lòng chẳng luận đúng sai, một niệm chẳng khởi, dở hay chẳng bàn…”. Vị đó được cấp ngay chiếc vé đặc cách vào cửa mà chẳng phiền tới sự kiểm tra, soi rọi của an ninh.

Để làm rõ thêm ý nghĩa “sự phân tích…” có thể ví “phân tích một pháp thế gian” (khi chưa có Huệ lực phát sanh) như hòn than đen, dù nằm kề bên nhau thì hòn than nào cũng đen như nhau, chẳng giúp ích gì cho nhau.

“Trạch Pháp Giác Chi” ví như hòn than hồng, nếu đủ duyên lành thì đốm lửa (vô sanh) của hòn than hồng có thể thách thức đốt cháy cả rừng rậm của vô minh, chuyển thiên, động địa, rung chuyển mọi bề… Bất cứ ai đầy đủ dầu đèn (công đức) mà gặp tia lửa từ than hồng (của bậc giác ngộ) thì nhất định sự cháy và tỏa sáng sẽ diễn ra, gọi là lan tỏa yêu thương đến mọi miền của văn hóa vô lậu./.

Con xin đảnh lễ Thầy ba lễ !!!
Con, Lý Thái Đăng

3. Bài viết của Lý Giác Thư

Kính Thầy !
Con xin đảnh lễ Thầy 3 lạy !!!
Kính HĐTM Lý Gia !
Con xin trả tham gia lời câu hỏi :

Câu1) Khi ta phân tích một pháp bất kì để thấy (nhìn nhận) pháp đó là đúng hay sai là chánh hay tà …v..v…Phân tích như vậy, có được gọi là “Trạch Pháp giác Chi” hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Đề nghị giải thích !!!

Trả lời:
Khi ta phân tích một pháp bất kỳ để thấy (nhìn nhận) pháp đó là đúng hay sai là chánh hay tà, thì đây không gọi là Trạch Pháp Giác Chi.

Trạch Pháp giác Chi tức là khi ta nghe một đoạn kinh hay một bài giảng, người này huy đông tất cả mọi kiến thức có được, dùng sức mạnh tinh tấn của Ngũ Căn, Ngũ Lực để giải quyết câu kinh này, bài giảng này.

Giống như một đưa trẻ, khi cô giáo cho một bài toán khó, thì đứa trẻ sẽ huy động tất cả những kiến thức đã học, để tư duy bài toán đó. Khi đứa trẻ tư duy , giải được bài toán này thì đầu tiên bài toán này sẽ không ra khỏi đầu của nó tức là cái hiểu biết này không mất trong đầu đứa trẻ, thì tư duy để giải cho được bài toán gọi là Trạch Pháp Giác Chi.

Như vậy khi ta phân tích một pháp bất kỳ để thấy (nhìn nhận) pháp đó là đúng hay sai là chánh hay tà, thì đây chỉ là trạch pháp chứ không thể gọi là Trạch Pháp Giác Chi.

Câu 2: Phân tích một pháp (bất kì) với ý nghĩa như thế nào, mới được gọi là trạch pháp giác chi ??? Khi ta phân tích một pháp (bất kì) đầy đủ ý nghĩa của trạch pháp giác chi thì, kết quả (cứu cánh) của việc phân tích cho ra thành quả gì trong Phật đạo ??? Hãy giải thích vì sao nó có được thành quả như vậy ???

Trả lời :
Khi ta phân tích một pháp bất kỳ đầy đủ ý nghĩa của Trạch Pháp Giác Chi tức là người này phân tích một pháp đến nơi đến chốn, phân tích để thấu rõ ngọn nguồn của pháp đó cho đến đạo quả, cho đến ý nghĩa cuối cùng thành tựu đạo quả giải thoát, thì người này coi như thành công việc tu tập Thất Giác Chi.

Thất giác chi gồm có 7 phần, khi người ta tu tập một pháp như pháp, thì hệ quả của nó lần lượt xuất hiện bảy điều đó là : Thứ nhất gọi là Trạch Pháp Giác Chi, thứ hai Niệm Giác Chi, thứ ba Tinh Tấn Giác Chi , thứ tư Khinh An Giác Chi ,thứ năm Hỷ Giác Chi , thứ sáu Định Giác Chi , thứ bảy Xả Giác Chi. Đây là bảy công đoạn đưa đến giác ngộ viên mãn từ một pháp gọi là Thất Giác Chi.

Ví dụ khi người tu hành có một sự việc rất khó đến với mình, người này dùng hết sức phân tích sự việc đó, tìm hiểu vấn đề đến nơi đến chốn, giải quyết được cái sự việc, thì cách giải quyết đó gọi là Trạch Pháp Giác Chi. Khi người này giải quyết được sự việc thì cái này tạo ra một cái dấu ấn trong lòng rất lớn, không thể nào quên được gọi là Niệm Giác Chi. Từ đó nó cho người ta thích thú con đường tu tập gọi là Tinh Tấn Giác Chi. Bây giờ mọi thứ đã rõ ràng rồi người này biết chắc đã bước vào cảnh giới xuất thế không còn thối lui nữa, gọi là Tinh Tấn Giác Chi và hai hệ quả tiếp theo đó là nhẹ nhàng và vui vẻ gọi là Hỷ Giác Chi và Khinh An Giác Chi. Cuối cùng bình yên sẽ xuất hiện trong lòng người này gọi là Định Giác Chi và mọi thứ ra khỏi cái đầu gọi là Xả Giác Chi.

Như vậy nói rằng bảy món, nhưng thật ra nó được dẫn đạo bằng một món đầu tiên, đó là Trạch Pháp Giác Chi, tức là phân tích một pháp đến nơi đến chốn, phân tích để thấu rõ ngọn nguồn của pháp đó cho đến đạo quả, cho đến ý nghĩa cuối cùng, là giải thoát của pháp đó, thì người này sẽ thành công Thất Giác Chi. Các chi sau không cần tu tập, nó là hệ quả tất yếu khi người tu hành giải được vấn đề, thì sáu giai đoạn đi đằng sau là hệ quả tất yếu của pháp ban đầu.

Như vậy khi ta phân tích một pháp (bất kì) đầy đủ ý nghĩa của Trạch Pháp Giác Chi thì, kết quả (cứu cánh) của việc phân tích là đưa con người ta đến Niết bàn diệt đế, chứng được quả giải thoát.

Trên đây là một số hiểu biết của con, còn nhiều điều chưa đúng, chưa đủ, mong Thầy và các HĐTM bổ khuyết và chỉ dạy cho con.

Con xin đảnh lễ Thầy 3 lễ !!!
Kính chúc Thầy luôn mạnh khỏe, trụ thế thật lâu !!!
Con, Lý Giác Thư

4. Bài viết của Nguyễn Quang Khánh

Kính Thầy!
Nhân đầu năm Canh Tý 2020, hương vị xuân còn tràn đầy. Cùng hoà vào niềm hân hoan của mùa xuân, Thầy tổ chức trò chơi trí tuệ.

Thưa thầy … Lần đầu cầm bút ghi lại những cảm nghĩ của riêng mình trong một câu hỏi trí tuệ. Con cảm thấy mình còn non nớt bởi tự thấy rằng mình chưa thật sự tinh tấn thâm nhập vào dòng chảy tâm thức, Phật đạo chưa nhuần nhuyễn bởi sự hàm dưỡng tu tập còn giải đãi, bị chi phối bởi tâm đời. Và mang nặng tính từ chương…. Kính mong Thầy hướng dẩn sửa chữa cho con ngày càng tiến bộ trên con đường tu tập.!!!

Trả lời câu hỏi Câu 1) Khi ta phân tích một pháp bất kì để thấy (nhìn nhận) pháp đó là đúng hay sai, là chánh hay tà…v..v…Phân tích như vậy, có được gọi là “Trạch Pháp Giác Chi” hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Đề nghị giải thích !!!

Khi ta phân tích một Pháp bất kỳ để thấy (nhìn nhận) Pháp ấy đúng hay sai, chánh hay tà thì không được xem là ”trạch pháp giác chi” bởi vì khi nghe, thấy, đọc, theo lẻ thường ai cũng vậy đều phải nhận định, phân tích, so sánh (trạch pháp) để nhìn nhận vấn đề có phù hợp với bản thân, gia đình, luật pháp ..v..v.. hay không. Có phù hợp với Đạo pháp hay không. Từ những nhận định này sẽ cho ra kết quả đúng, sai… phù hợp hay không phù hợp. Thật ra những phân tích này bằng nguồn tâm chúng sinh, thiên về lý trí và giáo điều, nhị nguyên bởi huân tập do những quy tắc trong cuộc sống mà có được, do đó sự phân tích này không được gọi là “trạch pháp giác chi” một chi phần của Thất giác chi trong Ba mươi bảy trợ đạo..!!!

Phân tích một pháp bấy kỳ bằng lý trí, tình cảm, bằng quy ước thế gian thì chỉ nhận định được đúng sai mang tính chất chủ quan Và có lợi lạc cũng chỉ phù hợp với quy ước đó…!!!!

Câu 2) Phân tích một pháp (bất kì) với ý nghĩa như thế nào, mới được gọi là Trạch Pháp Giác Chi ??? Khi ta phân tích một pháp (bất kì) đầy đủ ý nghĩa của Trạch Pháp Giác Chi thì, kết quả (cứu cánh) của việc phân tích ấy cho ra thành quả gì trong Phật đạo ??? Hãy giải thích vì sao nó có được thành quả như vậy ???

Trước khi trả lời câu hỏi con xin kiến giải vê sự nhận biết của mình về ”Trạch pháp giác chi”.

Trong “Thất giác chi” có “trạch pháp giác chi” là chi phần đầu tiên một pháp kế thừa trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, một pháp giải thoát trong vô lượng pháp giải thoát của phật đạo….. !!! Sau khi đã thành tựu ở giai đoạn tư lương vị, tâm của hành giả thanh tịnh giải quyết được hai vô sanh tiến học nhất thiết trí tiến về vô thượng bồ đề. Trong Phật giáo và Thiền, Thầy có giảng “Trạch Pháp giác chi” thuộc về chân giáo, tức là phân tích một pháp đến sự thật (chân lý) mới thôi khi Pháp sư giản trạch một pháp. Tâm ý người nghe chuyển biến theo từng lời từng ý, chấm dứt lời pháp, người thính pháp cũng dứt nguồn tâm, ngộ bổn lai thanh tịnh. Tâm ý chuyển biến theo lời thuyết giống như chiếc thuyền trôi theo dòng chảy cuối cùng là bến bờ. Do đó có thể hiểu Trạch pháp giác chi là nhân nơi giản trạch một pháp mà giác ngộ)…!!!

2/- Trả lời câu hỏi:
Do vậy khi giản trạch một pháp bất kỳ người trạch pháp phải có đủ yếu tố thanh tịnh tâm không còn nhị nguyên đối đãi đầy đủ sự giác ngộ đúng đắn của các phép tu trước trong Ba mươi bảy phẩm mới được gọi là trạch pháp giác chi.

Kết quả của trạch pháp giác chi là tiến vào Diệt đế đồng thời cũng là sự kế thừa của những phẩm trợ đạo phía trước. Chính những phẩm phía trước đúng đắn sẽ kết tụ thành công đức và trí tuệ cho sự giác ngộ hiện tại.

Nếu trạch pháp như lý tác ý một pháp bất kỳ bằng nguồn tâm thanh tịnh và giản trạch pháp ấy đến chân lý Phật đạo … Tuỳ sự giác ngộ của từng hành giả sẽ được chứng những đạo quả nhất định trên con đường tu tập của hành giả ấy..!!!

Thưa thầy trong những ngày này thế gian đang hồi hộp lo âu vì đại dịch NcoV…hoành hành mà chưa có thuốc điều trị. Những chướng duyên trong cộng nghiệp và nghiệp riêng gây cho chúng ta những niềm thương cảm và lo lắng bởi sự an nguy của cả loài người. Bằng nguyện lực con xin cầu nguyên cho chúng sanh thoát qua cơn nguy biến.

Kính chúc Thầy, vị Đại Sư Thường lạc Khinh an
Con Đệ tử: Nguyễn Quang Khánh

5. Bài viết của Lý Hậu Vệ

Thưa Thầy !!!! Con xin tham gia trả lời câu hỏi.
Trước Con xin đảnh lễ Thầy ba lễ, Con xin chúc Thầy thật nhiều sức khỏe.
Kế đến chúc toàn thể đại gia đình Lý Gia luôn khoẻ, thường tinh tấn và thành tựu những điều cần thành tựu.

1) Thưa thầy !!! Khi ta phân tích một pháp bất kì để thấy (nhìn nhận) pháp đó là đúng hay sai, là chánh hay tà…v..v…Phân tích như vậy, có được gọi là “Trạch Pháp Giác Chi” hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Đề nghị giải thích !!!
Trả lời:

Khi ta phân tích một pháp bất kì để thấy (nhìn nhận) pháp đó là đúng hay sai, là chánh hay tà…v..v…Phân tích như vậy, không được gọi là “Trạch Pháp Giác Chi”

Nếu phân tích một pháp để biết đúng sai, chánh hay tà thì phân tích đó chỉ được gọi là Trạch Pháp. Vì sao như vậy??? Là vì Trạch Pháp, nhìn nhận, mổ xẻ, phân tích… nhằm làm sáng tỏ những vấn đề còn động lại trưa được minh bạch rõ ràng. Lúc này Trạch Pháp (nhìn nhận) cho rõ ràng, minh bạch đúng bản chất của nó. Để hướng đi của đối tượng, người nghe không lệch, đúng với những gì họ cần và hướng đến.

2) Phân tích một pháp (bất kì) với ý nghĩa như thế nào, mới được gọi là Trạch Pháp Giác Chi ??? Khi ta phân tích một pháp (bất kì) đầy đủ ý nghĩa của Trạch Pháp Giác Chi thì, kết quả (cứu cánh) của việc phân tích ấy cho ra thành quả gì trong Phật đạo ??? Hãy giải thích vì sao nó có được thành quả như vậy ???
Trả lời:

Nếu phân tích một pháp (bất kì) mà vị này cảm nhận, giác ngộ điều gì đó, lúc này tâm ý và sự cảm nhận không sai khác, thì phân tích đó gọi là Trạch Pháp Giác Chi. Vì sao như vậy ? là vì khi làm được như vậy, giác ngộ như vậy, việc ứng dụng sẽ có hiệu quả, con đường tiến về Vô Thượng Bồ Đề sẽ gần hơn. Còn khác những điều như vậy thì không được gọi là Trạch Pháp Giác Chi.

Khi ta phân tích một pháp (bất kì) đầy đủ ý nghĩa của Trạch Pháp Giác Chi thì, kết quả (cứu cánh) của việc phân tích ấy cho ra thành quả gì trong Phật đạo ??? Kết quả việc này là vị đó tâm ý dừng không còn vọng động, nhận thức được thay đổi, an vui, nhẹ nhàng cảm nhận rất rõ như thế nào là vô lậu.

Muốn được như vậy, trong quá trình thể nhập Ba Mươi Bảy Phẩm, vị này phải trải qua cho được hai mục tiêu: thứ nhất của tư lương vị là nhất tâm như ý túc, thứ hai của kiến đạo vị là huệ lực. Khi đã có được huệ lực, vị này mới biết được con đường nào đưa đến hữu lậu, con đường nào đưa đến vô lậu. Như vậy, người này mới có cơ sở Trạch Pháp Giác Chi, phân tích, mổ xẻ đúng nghĩa với tinh thần vô lậu của Phật Đạo.

Trên đây là những phân tích của Con, có gì sai sót kính mong Thầy và BQT chỉ dạy thêm.
CON, LÝ HẬU VỆ

6. Bài viết của Lý Viết Uyên

Con kính lạy Thầy vô lượng lạy!!!
Con xin được trả lời Trò chơi trí tuệ kỳ 1/2020. Kính xin Thầy chỉ bảo, mài dũa thêm cho con được sáng lưỡi gươm trí tuệ.

1)Khi ta phân tích một pháp bất kì để thấy (nhìn nhận) pháp đó là đúng hay sai, là chánh hay tà…v..v…Phân tích như vậy, có được gọi là “Trạch Pháp Giác Chi” hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Đề nghị giải thích !!!

Trả lời: Trước tiên để trả lời hai câu hỏi này con xin được định nghĩa thế nào là “Trạch pháp” thế nào là “Trạch pháp giác chi” trong Phật đạo.
– Trạch pháp: là phân tích, mổ xẻ một vấn đề trong Phật đạo (ý nghĩa một câu, hay một đoạn kinh,…) đến tận nguồn cơn. Thường thì Trạch pháp là lời giảng giải (thuyết pháp) của các bậc Thiện tri thức (Phật, bồ tát) cho người học, đệ tử.
– Trạch pháp giác chi: là một chi phần giác ngộ trong Thất giác chi, là sự kế thừa của các phẩm trợ đạo trước đó (37 phẩm trợ đạo) mà người học thực hành như pháp sẽ kết tụ thành công đức và trí tuệ (huệ lực) nhân đọc một lời kinh, hay nghe Thiện tri thức giản trạch một pháp, người học nhân nơi giác dừng nguyên nhân sanh khởi tâm hư vọng, ngộ bổn tâm thanh tịnh.

Như vậy khi ta phân tích một pháp bất kỳ để nhìn nhận pháp đó là đúng hay sai, là chánh hay tà,…phân tích như vậy không được gọi là Trạch pháp giác chi.

Vì rằng Trạch pháp giác chi là nói đến giai đoạn người học đang áp dụng pháp này để đưa đến giác ngộ bổn tâm thanh tịnh thì sao có thể trực nhận pháp đó là đúng hay sai, là chánh hay tà,…trong Phật đạo.

Ngũ tổ cũng từng dạy: “Bất thức bổn tâm học pháp vô ích”. Như vậy cũng có nghĩa rằng chưa giác ngộ bổn tâm thanh tịnh thì có Trạch pháp cũng chỉ suy lường và mang ý nghĩa Trạch pháp của thế gian.

Vì vậy theo con thì phân tích một pháp bất kỳ để thấy pháp đó là đúng hay sai, là chánh hay tà phải là người ở trong đạo quả từ diệt đế trở lên.

2) Phân tích một pháp (bất kì) với ý nghĩa như thế nào, mới được gọi là Trạch Pháp Giác Chi ??? Khi ta phân tích một pháp (bất kì) đầy đủ ý nghĩa của Trạch Pháp Giác Chi thì, kết quả (cứu cánh) của việc phân tích ấy cho ra thành quả gì trong Phật đạo ??? Hãy giải thích vì sao nó có được thành quả như vậy?

Trả lời: Theo con mọi phân tích một pháp bất kỳ đều hướng về ý nghĩa tịch diệt hư vọng tâm và thành quả là thấy được tâm này bổn lai thanh tịnh.
Ví dụ như khi nghe Kinh Kim cang có câu: “Bất ưng trụ sắc sinh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sinh tâm”. Người học thầm hội nghĩa tâm vô sở trụ lúc này tâm thức dừng lặng ngộ bổn tâm rốt ráo thanh tịnh chứng Niết bàn diệt đế.

Theo con có được thành quả như vậy chính là sự kế thừa và thực hành như pháp đối với tất cả các phẩm trợ đạo trước đó.
Tri ân Thầy!!!
Con, Lý Viết Uyên

7. Bài viết của Lý Liêm

Kính thưa Thầy!!!
Con xin kính lạy Thầy ba lạy!!!
Kính thưa HĐTM Lý Gia!!!

Con xin kính trình hiểu biết của con về hai câu hỏi của Thầy Bốn. Cũng như trả lời câu hỏi trong TCTT 01/2020 như sau:

1) Thưa thầy !!! Khi ta phân tích một pháp bất kì để thấy (nhìn nhận) pháp đó là đúng hay sai, là chánh hay tà…v..v…Phân tích như vậy, có được gọi là “Trạch Pháp Giác Chi” hay không ??? Vì sao được ??? Vì sao không ??? Đề nghị giải thích !!!

Trả lời:
Khi một cá nhân hoặc một vài huynh đệ có dịp họp mặt,… rồi đem một câu kinh, một pháp bất kì nào đó ra để phân tích pháp đó là đúng hay sai, là chánh hay tà…v..v… Phân tích như vậy, theo ý kiến của con chưa thể kết luận là có “Trạch Pháp Giác Chi” hay không.

Muốn biết việc phân tích một pháp bất kì để thấy pháp đó là đúng hay sai, là chánh hay tà,… có phải là Trạch Pháp Giác Chi hay không phải căn cứ vào mức độ giác ngộ đến đâu của người đang tu tập. Vì việc phân tích này có thể được nghe người khác nói rồi thuật lại hoặc tự ngồi nhớ lại giáo pháp đã được học từ trước.

Để làm sáng tỏ vấn đề hơn con xin giải thích. Vì chúng sanh đa bệnh, Phật (Đại Bồ Tát) có nhiều thứ thuốc để trị bệnh cho chúng sanh. Tuỳ theo người bệnh, thứ bệnh mất phải… mà Phật có thể điều trị một lần là dứt hẳn bệnh hoặc đề ra phát đồ điều trị dài hạn. Cho nên trong kinh, phần cuối các quyển kinh thường có ghi lại đại ý như sau: Sau một thời thuyết có vô số người được hết Khổ, dứt Tập, chứng Diệt, tu Đạo, thành tựu Trí Tuệ,… Còn giai đoạn để thành tựu Trạch Pháp Giác Chi được xem như là khâu cuối cùng để giúp chúng sanh trị dứt bệnh tình.

Trong cuộc sống có những trường hợp ngoại lệ. Có khi gặp may mắn người bệnh tự mình điều trị bệnh của chính mình đến khỏi hẳn. Nhưng xác xuất rất hiếm hoi. Theo khuyến cáo của các bác sĩ thì bệnh nhân không nên tự ý điều trị. Trong Đạo Phật cũng vậy. Theo con hiểu qua lời Thầy dạy: Vào thời không có Phật ra đời. Nếu có người nào đó nhìn thấy hoa rơi, lá rụng,… mà tự mình Giác Ngộ. Quả vị đạt được gọi là Độc Giác Phật. Trong trường hợp đặc biệt như thế thì theo con hiểu là Trạch Pháp và Trạch Pháp Giác Chi không phải là hai thứ thuộc về hai chủ thể khác nhau. Nghĩa là người bệnh cũng chính là bác sĩ, bác sĩ này tự điều trị bệnh cho chính mình.

2) Phân tích một pháp (bất kì) với ý nghĩa như thế nào, mới được gọi là Trạch Pháp Giác Chi ??? Khi ta phân tích một pháp (bất kì) đầy đủ ý nghĩa của Trạch Pháp Giác Chi thì, kết quả (cứu cánh) của việc phân tích ấy cho ra thành quả gì trong Phật đạo ??? Hãy giải thích vì sao nó có được thành quả như vậy ???

Trả lời:
Trạch pháp có nghĩa là giảng trạch một pháp đến tận nguồn cơn.

Giác chi có nghĩa là chi phần của sự giác ngộ.

Như vậy ý nghĩa để phân tích một pháp được gọi là Trạch Pháp Giác Chi con xin trả lời như sau:

Theo con hiểu khi một người có nhân duyên lớn gặp được Thiện Tri Thức. Hoặc đã từng tu tập trong Phật đạo đã trải qua nhiều trận đường. Có được con mắt sáng của Huệ Lực biết rõ con đường nào đưa đến hữu lậu, con đường nào đưa đến vô lậu. Nhưng chưa hoàn toàn được vô lậu. Khi hội đủ công đức nhân nơi sự giảng trạch một pháp của vị Thiện Tri Thức. Vị này nương nơi pháp được nghe, quay lại thân tâm của chính mình giác ngộ về một trong tứ niệm xứ. Tâm pháp hoàn toàn tịch diệt. Thực hành như vậy theo con hiểu là Trạch Pháp Giác Chi.

Khi ta phân tích một pháp với đầy đủ ý nghĩa của Trạch Pháp Giác Chi thì, kết quả (cứu cánh) của việc phân tích ấy là vị này chứng được Diệt đế.

Vì đối với tự thân mỗi chúng sanh từ vô lũy kiếp sống trong vô minh được ví như hang động tăm tối nghìn năm, ví như một người mù bẩm sinh,… Một mai giác ngộ, một mai sáng mắt như ngọn đèn bừng sáng trong hang động, như người mù bẩm sinh được chữa lành đôi mắt thì vĩnh viễn không còn trở lại cảnh tối tâm như ngày xưa. Con nhớ trong kinh có ghi lại đoạn đối thoại đại ý như sau:

Có một vị đệ tử hỏi Phật. Như một người tu hành đã giác ngộ rồi (Chứng Diệt đế) còn bị phiền não, kiết sử như lúc trước nữa không?

Phật lấy ví dụ để trả lời cho vị đệ tử rằng. Một người đã giác ngộ (Chứng Diệt đế) giống như vàng trong quặng đã được luyện thành vàng SJC vĩnh viễn không còn trở lại thành quặng nữa.

Trong phần trả lời của con không thể tránh khỏi những điều chưa đúng. Kính mong Thầy và HĐTM chỉ dạy thêm.
Con, Lý Liêm

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

like

dislike

love

funny

angry

sad

wow