Bát Niết Bàn

Phật dạy: "Một hữu tình trong quá trình tiến về Vô Thượng Bồ Đề, không nhất thiết phải kinh qua Bát Niết Bàn"; “Mục đích của chư Phật ra đời là để khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến cho chúng sanh”

Tháng 3 12, 2022 - 18:24
Tháng 10 13, 2024 - 06:49
 0  82
Bát Niết Bàn
Lý Tứ Hỏi Đáp Số 21

Các bạn !!!

Vừa rồi, có một số HĐ hỏi mình: Thưa Thầy !!! Trong Vô Đối Môn Thầy có viết: “Phật dạy: Một hữu tình trong quá trình tiến về Vô Thượng Bồ Đề, không nhất thiết phải kinh qua Bát Niết Bàn” !!! Xin hỏi: Câu này nên hiểu như thế nào ???

Mình xin trả lời chung cho mọi người như sau !!! Để có thể hiểu đúng lời dạy trên, đầu tiên ta phải xác định mục tiêu tối thượng của Phật đạo là gì ??? Khi xác định được mục tiêu, chúng ta sẽ hiểu lời kinh vừa nêu một cách dễ dàng !!!

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phật dạy: “Mục đích của chư Phật ra đời là để khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến cho chúng sanh” !!! Câu này có nghĩa, mục đích chư Phật ra đời là để giúp chúng sanh có được trí tuệ tối thượng như chư Phật !!! Thành Phật chính là thành tựu trí tuệ tối thượng (như chư Phật) chứ không phải thành cái gì khác !!!

Để phá bỏ các kiến chấp sai lầm của người đời khi nhìn Phật và hiểu Phật thông qua danh tướng, rồi chấp rằng một đức Phật phải là thế này hay thế kia, mà quên mất Phật chính là trí tuệ tối thượng, nên kinh Kim Cang Phật đã dạy: “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai” !!! Câu này hàm ý rằng, những ai chấp nhất vào hình tướng bên ngoài, chấp nhất vào danh xưng hay truyền thuyết mà cho rằng đây là một vị Phật…Những người như thế, đang theo đạo tà (hiểu biết không chân chánh), hiểu và chấp nhất như vậy sẽ không giúp (những người ấy) thấy được ý nghĩa một đức Phật (Như Lai) đích thực (chính là trí tuệ vô tướng) !!!

Như vậy ta có thể hiểu, học tập trong Phật đạo là học tập trí tuệ, khi viên mãn trí tuệ thì sẽ trở thành một vị Phật như tất cả các vị Phật khác, không luận về hình tướng, danh xưng, xuất thân, địa vị, nơi chỗ..v..v…!!! Giống như trong giáo dục, mọi người đều có thể học tập nền giáo dục ấy, bản chất của giáo dục là không phân biệt, cũng không phải đặc quyền cho bất kì một đối tượng nào…miễn bản thân người theo học có đủ năng lực tiếp thu kiến thức, và không bỏ cuộc giữa chừng !!!

Tuy lí thuyết là như vậy, nhưng trong thực tế, người học phần lớn bị chi phối bởi nhiều thứ như: Hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, điều kiện kinh tế…v..v…khiến người ta không thể theo đuổi công việc học tập !!! Để giải quyết các vấn nạn này, xã hội và những nhà giáo dục buộc phải có các hình thức hỗ trợ cụ thể để giúp người học có thể tiếp tục công việc học tập !!!

Giáo dục trong Phật đạo, cũng có một phần nào đó giống giáo dục quốc dân !!! Tuy rằng mục tiêu của Phật đạo là trí tuệ…Thế nhưng, một người muốn học tập đạo trí tuệ, nhưng trong lòng có nhiều nỗi khổ, tâm thức tích chứa phiền não, niệm mê không dứt, ngã chấp nặng nề…v..v…Thì, những người lâm vào hoàn cảnh như vậy, cũng rất khó lòng học được thứ trí tuệ tối thượng của chư Phật !!!

Để giải quyết vấn nạn này, đạo Tứ Đế ra đời !!! Đạo Tứ Đế là một trong những công cụ tối ưu, giúp người học vượt qua những khổ hoạn của tự thân bằng ba cấp học cơ bản là Khổ Đế, Tập Đế và Diệt Đế… Cuối cùng, Đạo Đế là công cụ hỗ trợ, giúp hữu tình khắc phục những yếu kém cố hữu, đó là không biết rằng đằng sau những hình tướng hư vọng của thân tâm và thế giới mà một hữu tình đang thấy biết…Nó còn một thứ tướng khác, mà chỉ những ai thành tựu trí tuệ vô lậu mới có thể nhìn thấy, đó là thiệt tướng (thiệt tướng là nhất tướng, nhất tướng là vô tướng) !!! Từ đây, khái niệm khai Huệ Nhãn ra đời, khái niệm Trí Tuệ Vô Tướng ra đời !!!

Như vậy, ta có thể hiểu: Đạo Tứ Đế hay Hoá Niết Bàn chỉ là công cụ tạm thời, giúp hữu tình vượt qua một số trở ngại nhất định của tự thân, mà chính những trở ngại này khiến họ không thể an ổn cũng như sáng suốt để tiếp nhận trí tuệ tối thượng của chư Phật !!! Đây là lí do vì sao, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phật dạy: “Chỉ có nhất thừa, không có hai ba thừa”…Hoặc kinh này cũng dạy: “Phương tiện cho ba xe, nhưng rốt cùng chỉ một xe trâu trắng” !!! Kinh Bát Nhã cũng nói với đại ý: “Vô khổ, tập, diệt, đạo” !!!

Lịch sử đã ghi nhận, có những thực tế trong đạo cũng như ngoài đời…Không thiếu những người tự vượt qua trở ngại bản thân để chiếm lĩnh đỉnh cao trí tuệ !!! Nhưng, những người như vậy quá hiếm hoi !!! Đây là lí do vì sao chư Phật phải hoá hiện Bát Niết Bàn thông qua con đường Tứ Đế, trong khi đó cốt tuỷ của đạo Phật là dạy người thành tựu trí tuệ chứ chẳng phải Niết Bàn !!!

Các lời dạy như: “Ông trưởng giả phải một phen lột chiếc áo cao quý (Trí Tuệ Tối Thượng), khoác lên mình chiếc áo hôi nhơ (Tứ Đế và Ba Thừa) để đồng sự cùng gả cùng tử (dạy các pháp quyền tiểu của Bát Niết Bàn)” !!! Hay, “Chư Phật xưa dùng ba thừa, nay ta cũng dùng ba thừa mà giáo huấn” !!! Các câu nói này, có lẽ đến giờ này các bạn không còn lấy làm lạ !!!

Như vậy câu nói: “Một hữu tình trong quá trình tiến về Vô Thượng Bồ Đề, không nhất thiết phải kinh qua Bát Niết Bàn” là một sự thật của giáo dục Phật đạo !!! Nhưng, trường lớp, bản đen, phấn trắng, ăn no, mặt đẹp, đồng phục uy nghi…v..v…tuy không can dự gì đến việc cung cấp kiến thức, nhưng thiếu nó, việc dạy và học khó có thể hoàn thành…đây cũng là một sự thật của giáo dục !!!

Viết đến đây, Lão Lý bỗng dưng cảm thấy trở nên thông tuệ, bèn cao hứng sáng tạo ra “Triết Lí Ổ Bánh Mì”…Dựa trên cơ sở lí luận được đúc kết từ thực tiễn cuộc sống như sau: “Ổ bánh mì không làm nên nhà Bác Học…Nhưng, thiếu ổ bánh mì, nhà Bác Học có nguy cơ sẽ trở thành nhà Thất Học dễ…như…chơi !!! Vì thế, bánh mì vẫn là…muôn…năm trong cuộc sống” !!! Ha ha ha ha !!!

GHI CHÚ:
Bát-niết-bàn (zh. 般涅槃, sa. parinirvāṇa, pi. parinibbāna) là tịch diệt hoàn toàn, đồng nghĩa với Niết Bàn (sa. nirvāṇa). Thường thường người ta hiểu Bát-niết-bàn là Niết-bàn vô dư, nhưng cũng có người hiểu Bát-niết-bàn là Niết-bàn hữu dư, thậm chí có người hiểu cái chết một vị tăng, ni cũng là Bát-niết-bàn. (Theo Wikipedia) !!! Hi hi hi hi !!! Chữ bát (pa) ở đây không phải là tám, cũng chẳng phải là rộng lớn !!! Chớ có hiểu lầm !!!

Để kết thúc CHUYỆN MỤC BẠN ĐỌC HỎI LÝ TỨ TRẢ LỜI kì này !!! Xin chuyển đến các bạn bài viết của HOÀNG TUẤN CÔNG đăng trên Blog TUẤN CÔNG THƯ PHÒNG !!!

“Đời Tấn (晉) có người học trò tên là Xa Dận (車胤), tự Vũ Tử (武子), thông minh dĩnh ngộ ham học, nhưng gia cảnh bần hàn. Nhà nghèo, không đủ tiền mua dầu thắp sáng, nên vào những đêm hè, Xa Dận bắt đom đóm bỏ vào một cái túi lụa, gọi là “nang huỳnh” 囊螢 (túi đom đóm) để tạo ra ánh sáng đọc sách thâu đêm. Đến khi trưởng thành, Xa Dận càng nổi danh mẫn tiệp, thông tuệ, sau làm tới chức Lại bộ thượng thư.

Cũng vào đời Tấn, còn có một anh học trò khác, tên Tôn Khang (孫康), nhà cũng rất nghèo. Tối đến không có dầu đèn để xem sách, Tôn Khang cảm thấy đêm dài như vô tận. Đến mùa đông tuyết rơi, anh học trò nghèo Tôn Khang thường ngồi cạnh cửa sổ, nhờ ánh sáng phản chiếu của tuyết trong đêm để đọc sách, sau thành tài, làm quan tới chức Ngự sử đại phu.

Người đời sau đặt nên thành ngữ “Nang huỳnh độc thư” 囊螢讀書 (Đọc sách bằng túi đựng đom đóm) hay “Ánh tuyết độc thư” 映雪讀書 (Đọc sách bằng ánh sáng của tuyết) chỉ những tấm gương hiếu học, vượt qua mọi gian khổ. Các dị bản “Nang huỳnh tích tuyết”; “Tập huỳnh ánh tuyết”; “Tụ huỳnh tích tuyết”; “Chiếu huỳnh ánh tuyết”.v.v…đều chỉ hai tấm gương hiếu học Xa Dận và Tôn Khang đời Tấn.
………
Chính vì khó, mà trải qua hàng ngàn năm, đất nước Trung Quốc rộng lớn với hàng tỉ người, nhưng đọc sách bằng ánh sáng đom đóm cũng chỉ dừng lại con số 1 duy nhất-một người duy nhất sống ở thời kỳ mà hư thực thường hay ẩn hiện trong màn sương huyền hoặc. Bởi vì khó, nên mới được sử sách lưu danh. Nếu đọc được sách dễ dàng, thì chắc hẳn “đèn đom đóm”, hay “ánh tuyết” đã trở thành một thứ “năng lượng” được người khai thác rộng rãi, chứ không chỉ dừng ở những giai thoại trong sách vở.
………” !!!

20/12/2019

LÝ TỨ

- Các bạn có thể gửi câu hỏi theo đường link: https://forms.gle/HooJiZeXLBNokpUx8

- Hoặc đặt câu hỏi trực tiếp từ Website LyTu.Vn

Bạn cảm nhận bài viết thế nào?

like

dislike

love

funny

angry

sad

wow